<blockquote>Kalama tri ân bạn ghi chép.</blockquote>
toaikhanh.com
Sửa bài / Editing: Kinh Trung Bộ số 009
Kinh Trung Bộ số 009 [09/01/2023 - 07:06 - dieulienhoa67] Kinh Trung Bộ - Chánh Tri Kiến - Kinh số 08 Nếu 0 có điều kiện nghiên cứu trọn vẹn 152 bài kinh Trung Bộ, thì chúng ta để tâm nghiên cứu khoảng 20 bài kinh Trung Bộ thuộc hệ Pali này. Trong đó, 0 thể nào thiếu bài Kinh Chánh Tri Kiến, là bài kinh số 8 này đây. Theo như chỗ hiểu biết của ... thì bên cạnh những bài kinh rất nổi tiếng của Trung Bộ Kinh, như là kinh Căn Bản Pháp Môn, kinh Chánh Tri Kiến, kinh Trạm Xe, kinh Lõi Cây, Đại/Tiểu Kinh Phương Quảng, gọi là nổi tiếng ở đây 0 phải nói theo suy nghĩ của riêng mình, mà là vì những học giả Tây phương khi biết về Phật Giáo thì ng ta cũng thường xuyên trích dẫn 3:00 [10/01/2023 - 06:41 - dieulienhoa67] Nếu được xin để giao diện như cũ, người ghi dễ dò ới đoạn đang ghi hôm trước. Với giao diện hày, rất khó để dò lại chỗ gi xong, phải nghe lại từ đầu. Bất tiện lắm ạ [10/01/2023 - 06:43 - dieulienhoa67] Nếu được, xin để giao diện cũ, sẽ dễ cho người ghi dò tới đoạn đã ghi xong hôm trước. Với giao diện này, 0 thể dò được như vậy, phải nghe từ đầu, rất mất tgian và bất tiện ạ. [10/01/2023 - 08:18 - dieulienhoa67] những bài kinh này. Ngay cả những vị thiền sư Thái Lan khi dạy thiền rất là sâu và rộng, cho cả những người nghiên cứu giáo lý như là 1 môn học. Những vị nào càng hiểu sâu hiểu rộng về Phật Pháp thì có thể phân tích bài kinh này trong 1 tuần lễ, 1 tháng vẫn được, vẫn chưa hết vì nội dng bài kinh này rất là sâu. Cho nên sau khi đọc tới lui phần Chánh Kinh và phần Chánh Sớ thì tôi nghĩ nếu mà giảng ít thì rất là uổng, nên giảng kỹ. Quý vị nghe xong thì sẽ biết vì sao chúng tôi quyết định chia bài kinh này ra làm tối thiểu 3 phần. Nếu kỹ hơn thì 7 phần trong 1 tuần lễ. Để khỏi mất thời giờ của quý vị, chúng tôi sẽ trình bày tha83g vào nội dung Chánh Kinh. Xin nói trước là đêm nay trình bà nhiều lắm là 1/4 hay 1/7 của kinh này mà thôi. Thuở ấy Đức Phật ngụ tại Kỳ Viên Tịnh Xá của ông Cấp Cô Độc. Chiều hôm đó, Ngài Xá Lợi Phất thấy sau 1 buổi giảng, thấy chư Tăng sau buổi giảng của Đức Tế Tôn không có vẻ mệt mỏi, mà vẫn hoan hỷ sẵn sàng để tiếp thu thêm nữa. Ngài Xá Lợi Phất mới lên tiếng đề nghị chư Tăng hãy ngồi lại và ngài trình bày bài kinh Chánh Tri Kiến này. Tôi cũng thưa rõ 1 chuyện để các vị khỏi bỡ ngỡ. Đó là thời Đức Phật , chư Tăng 0 học kinh điển qua hình thức chữ viết hay sách vở như chúng ta ngày nay. Toàn bộ kinh điển là học theo hình tức khẩu truyền tâm học. 6:17 [10/01/2023 - 08:21 - dieulienhoa67] Dạ con xin nói thêm, mong là 0 làm phiền: Nếu việc lưu trữ quá nhiều video clip khiến cho trang web quá tải, thì những bài nào được ghi chép xong, có thể 0 cần lưu video clip nữa mà ghi đường link trên youtube hay lưu mp3 để Phật tử vào sau muốn nghe thì có để dùng. Còn các file chưa ghi chép xong thì nên để video clip hoặc đường link với youtube để ghi chép cho tiện, muốn tua tới hay lui đều tiện, chứ file mp3 này, muốn tìm đúng đoạn mình đã ghi xong rất khó ạ. Phải nghe lại từ đầu. [09/01/2024 - 11:25 - dieulienhoa67] Vị này nói thì vị khác nghe, nhớ được bao nhiêu thì nhớ. Chỉ trừ những vị chứng đắc Thánh Quả kèm theo 4 Tuệ phân tích, Pháp/ Nghĩa/ Từ/ Biện Tài Vô Ngại Giải, các vị đó nghe 1 biết 10 hiểu 100. Còn đại đa số phàm phu người ta rất là tha thiết với Phật Pháp vì được gặp Đức Phật và có duyên lành xuất gia thì phước báu, túc duyên của họ rất sâu dày. Chính vì vậy mà với các vị, Phật Pháp 0 bao giờ chán/ thấy no/ đủ. Các vị tưởng tượng đi, trong 1 điều kiện nào đó rất là khắc nghiệt , chúng ta 0 được quyền giữ sách vở, internet, 0 có giấy viết mà tất cả chỉ được học bằng trí nhớ thôi thì những ai muốn học thì họ tha thiết lắm. Chúng ta thấy thời xưa như thời Khổng Tử, Trang Tử Lão Tử, ng ta hiếu học lắm. Mình bây giờ thời đại internet, cần là mình có , cần là mua vé máy bay mời vị Pháp Sư đến chỗ mình để giảng, vd vậy. Nhưng đời xưa 0 có. Nên mình xeme kinh sách mình thấy chư Tăng thời đức Phật nghe Pháp. Người thuyết Pháp có thể là Đức Phật, Ngài Sariputa, 1 vị Trưởng Lão nào đó ... nghe hoài 0 chán là vì lý do: 1. Duyên lành nhiều đời nhiều kiếp. Phật Pháp họ đam mê 0 rời ra được. Luôn sống trong tâm trạng 0 nghe thì 0 còn kịp nữa. Còn mình bây giờ đối với Chánh Pháp mình 0 tha thiết, có ỷ lại: nếu 0 nghe vị đó thì nghe vị khác giảng. 0 nghe giảng thì xem Kinh. 9:00 2. [16/04/2024 - 12:39 - luongngocyen621] Nó khổ như vậy. Mà hai là mình có cái ỷ lại như vậy đó thì mình không nghe. Mình về xem kinh mà. Đằng này khi mình có ý nghĩ như vậy thực tế thì mình lại không muốn rờ tới quyển kinh, quyển sách. Đó là lý do tại sao các vị thấy bài kinh Chánh tri kiến nội dung rất là khô khan, rất là nhức đầu nhưng mà khi Ngài Xá Lợi Phất giảng tại chỗ cho chư Tăng nghe thì các vị thưởng thức bài kinh này giống như người ta được mời ăn một buổi đại tiệc. Một người đang đói bụng thì mời họ vào buổi đại tiệc họ không có một lời than van, lên tiếng là tại sao có nhiều món quá, tại sao dọn ra đầy bàn như vậy. Không ai một người đang đói không bao giờ họ lên tiếng như vậy cả. Ở đây bài kinh Chánh tri kiến này là một bài kinh có thể nói là thu gọn, tóm gọn lại, thu tóm lại gần như tất cả lời dạy của Đức Thế Tôn. 10:05 [21/04/2024 - 11:15 - baokhanhnice] Ngài Xá Lợi Phật có hỏi các chư tăng các vị đã từng nghe qua, biết qua cái gọi là Chánh chi kiến chưa vì chánh chi kiến đối với một người tu thì tất cả các pháp môn tu hành của mình dù là thiền chỉ, thiền quán, giới, định, tuệ, dù là 37 Bồ đề hành hay nói đến Tứ diệu đế, thất giác chi, bát chánh đao... nói gì thì nói tất cả các Pháp tu đều lấy trí tuệ làm gốc. Trí tuệ có một khuôn mặt rất rõ ràng, bên Minh giáo (Chỗ này con nghe không rõ lắm) có nói là ở đây sài chữ trí tuệ không được rõ ràng lắm, nhưng mà chánh tri kiến thì rõ ràng hơn, nếu nói trí tuệ là cội nguồn, là căn cơ, là nền tảng của tất cả Pháp môn chánh trong Phật giáo, thì điều đó cũng có nghĩa là chánh tri kiến là nền tảng, là cơ sơ của tất cả các pháp môn tu chính, khi không có chánh tri kiến thì không có cách chi mà thực hiện con đường tu chứng thành Phật, không thể nêu rõ sự khác biệt giữa bậc thánh và phàm phu, và sự khác biệt duy nhất đó chính là chánh tri kiến. Bậc Thánh luôn có tránh chi kiến còn phàm phu thì lúc có lúc không. Mà cái chánh tri kiến của phàm phu thì nó không đươc rốt ráo, sâu rộng tới nơi tơi chốn và đặc biệt không đươc bất động như ở bậc Thánh. Nói bất động ở đây là vì phàm phu có thuộc lòng hết tam Tạng, thông suốt giáo lý tất cả các hệ phái như Nam tông, Bắc tông hay nói rộng ra như thời vua A Dục có đến 18 tông phái mình có thông suốt hết đi nữa, nhưng mà khi mình chưa là vị Thánh tu Đà quờn thì cái Đức tin hoặc chánh kiến của mình luôn luôn có hạn chế nhất định, vì chỉ cần khi mình nghe một cái gì đó mà có cơ sở, lý luận gì đó có khả năng để tin là mình dễ dàng buông bỏ Phật Pháp hoăc buông bỏ chánh kiến để đi theo cái hệ thống đó. Cái điều này chúng ta không thấy hiếm có ví dụ như Ông... là một dịch giả rất nổi tiếng của phái Nam tông, ông chỉ là cư sỹ nhưng rất tinh thông Tam tạng, kinh điển, nhưng khi đứa con của ông qua đời thì ông rất bất mãn vì người thực hành Phật pháp như ông mà có đứa con cũng cứu không được, bản thân ông là 1 vị tiến sỹ, lại thông thuộc kinh tạng mà lại như thế nên ông shock và nghĩ lung tung nên bất mãn và ông đã lơ là lời dạy của Đức Phật và sau đó ông qua Thông thiên học, đây là một nhánh Phật giáo hậu thời tức là mới đây thôi bên Ấn độ và pháp môn này đước giới tây phương hưởng ứng. Giáo phái này thì về hình dáng giống Cao Đài nhưng nó cao hơn một chút, có nghĩa người ta đảnh Đức Phật làm chúa, lấy một phần lời dạy của Đức Phật làm nền tảng cho giáo thuyết,.... họ không mong chứng quả và hệ phái này nặng về đức tin hơn là chánh tri kiến. Chúng tôi kể chuyện này để nói đến cái chánh tri kiến của phàm phu, nó không bất động rốt ráo nên sẽ dẫn đến những hiểu nhầm, ngộ nhận rất đáng tiếc. Chúng tôi mở rộng đầu bài kinh để thấy được rằng cái chánh tri kiến nó rất quan trọng (Sư có nói một chút tiếng Pali), và không có chánh tri kiến không có cách chi mà tu hành và không có cách chi để trở thành thánh nhân. Vì nó quan trọng như thế nên ngài Xá Lợi Phật đã mở đàu buổi giảng bằng 1 từ "Chánh tri kiến" Được gọi là Chánh chi kiến là như thế nào? Như thế nào là một vị chánh đệ tử có chánh chi kiến? Có chi kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối, ở đây có chữ tuyệt đối là sao? có nghĩa là khi mà có chánh tri kiến rồi thì có nhìn thấy Đức Tôn hay không nhìn thấy ngài thì những gì người ta nghĩ về vô thường, khổ và vô ngã nó vẫn là như thế, không thay đổi. ở đây có những vị Phật tử mà có ít nhiều A tỳ đàm thì chú ý ở bài kinh này có ít nhất 3 điểm quan trọng, thí dụ như ở trong bài kinh này Đức thế tôn khi thuyết giảng về Duyên khởi, 12 duyên sinh, vô minh thì ngài thuyết bằng cách Ngài đảo thứ tự tức là xưa nay chúng ta chỉ nghe theo cách thuận hay cách nghịch hoặc đi vào nửa chừng Thuận tức là vô minh duyên hành, hành duyên thức...hệ thống trình tự của cuộc sanh tử luân hồi Còn Duyên sinh nghịch tức là vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt dẫn đến danh sắc diệt. Vào nửa chừng là có lúc Thế Tôn không bắt đầu từ chữ vô minh mà Ngài bắt đầu xúc, có lúc thì thọ, từ ái, từ thủ, sanh... Còn trong bài kinh này Đức Phật ngài thuyết theo chiều nghịch Baokhanhnice STOP 18:13 [22/04/2024 - 09:09 - baokhanhnice] Ở đây Ngài không nói theo chiều đảo là cái này diệt thì cái kia diệt mà Ngài thuyết về già lão trước, tiếp đó ngài mới ngài nói về sân sau đó mói đến hữu. Vì trên nguyên tắc khi nói về chính kinh, về giáo lý duyên khởi mình được học thì minh nói vô minh hành,thức danh sắc lục nhập, từ sanh rồi thủ rồi ái, nghịch đảo ở đây không phải là nói đến diệt mà nó đảo cái chiều xuôi, ngược trong chiều xuôi Đó là 2 điểm đặc biệt trong bài kinh này (nói về giáo lý duyên khởi ngược và chỉ đề cập đén tam lậu hoặc thay vì tứ lậu hoặc - đây là ý của Sư và con gom lại để văn viết xuôi một chút), 1 điểm nữa đó là khi nói đến tứ lậu thì Ngài không có nói đến tứ lậu mà ngài chỉ nói đến tam lậu hoặc mà thôi đó là dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, thì còn kiến lậu thì Ngài để đâu? Chúng tôi nhớ có một lần khi trình bày về kinh " Nhất thiết lậu hoăc" cũng chỉ trình bày về 3 lậu hoăc Dục lậu là tất cả lòng tham muốn sở hữu, hướng đến 5 hữu lậu Hữu lậu cũng là lòng tham nhưng có sự tái sanh Kiến lậu tức là tham ái có đi chung với 2 tà kiến đó là thường và đoạn kiến Vô minh lậu là cái si mê mà không thấy được, Nói một cách chi tiết là như vậy, nhưng ở trong chánh kinh Nguyên thủy thì có lúc Đức Phật và chư thánh tăng chỉ thuyết có 3 lậu hoặc mà thôi, đó là (Dục lậu, hữu và vô minh lậu) Điểm đặc biết thứ 3, mong các vị lưu ý cho (rất quan trọng và hữu ích) đó là thường khi chúng ta được học về vòng sanh tử luân hồi, cái cuội nguồn đi ra từ vô minh, ít có ai biết được cái vô minh đó nó từ tứ lậu hoăc mà ra, cho nên trong bộ ...(Tiếng Pali) ngài ... có ghi 1 câu: Chúng sanh mà chết cũng do pháp lậu chủng đầu vô minh, Do tứ vô lậu hoăc nên vô minh mới có mặt và tồn tại, ở trong bài kinh Chánh tri kiến này ngài Xá Lợi Phất cũng đi xa thêm 1 bước nữa, thường là mình chỉ nhắc đến cuội nguồn của sanh tử luân hồi là vô minh, rồi thêm chút nữa cội nguồn của vô minh là tứ lậu, ở đây Ngài Xá Lợi Phất đi xa thêm một chút nữa đó là vô minh là cội nguồn của tứ lậu. Chính vì có cái luẩn quẩn này là nó tạo ra vòng luân hồi, và vòng tròn thì nó không có chỗ nào là bắt đầu và chỗ nào là kết thúc. Chúng ta có thể lấy cái nhẫn, cái vòng để kiểm chứng điều này. Tại sao Đức Phật và các vị Thánh tăng lại chọn điểm bắt đầu của vòng luân hồi là vô minh? Các ngài phải chọn ra một cái mắt xích để bắt đầu, chư nó tròn vo kín khít như thế mà để nói chung chúng hiểu thì phải chọn ra một điểm khởi đầu mớicó thể triển khai, trình bày và làm rõ con đường tu chứng, chính vì có mắt, mũi, tai, lưỡi, thân, ý nên nó kéo theo sắc, lục nhập gặp lục trần ra xúc, từ xúc ra thọ, từ thọ mới ra tham ưu và từ đó nảy sinh ra không biết bao nhiêu thế nhiêu khê khác, cho nên chúng ta phải chọn một cái nào đó để nói. Có lúc Ngài chọn cái nhân, có lúc cái quả, cái nhân là nói đến phiền não, chọn cái quả là khi ngài nói đến lục căn hay ngũ uẩn. Cái danh sắc này hay ngũ uẩn này nó là quả của đời trước, chứ bản thân nó không thiệt. Xin quý vị nhớ là bản thân của tai mắt mũi không là thiện hay ác nhưng bản thân mình không có cái thường cận y duynayfv về thiện chủ yếu hoăc nếu có thì răt nhẹ và yếu so với thường cận y duyên thiện từ cái thói quen của mình, từ đó có những khái niệm tàng thức và trên cơ đó người ta mới lấy tâm ý hữu phần gọi tên nó là A lại gia thức. Trong kinh điển Nam tông có ghi rất rõ cái nào là ....(Chỗ này con nghe không có rõ nên con không dám ghi phút 26:07). Cái danh sắc này, mắt mũi tai lưỡi thân ý này, ví dụ cái gọi chúng sinh là ông A, bà B thì con mắt của ông biết cảnh sắc không phải là thiện tương tự cái biết của tai, mũi lưỡi là ý thức và chỉ là biết không có thiện hay ác nhưng do cái tập khí, tiền duyên phiền não và cái tiền duyên này được nuôi dưỡng bằng thói quen nên trong cái quả này (danh sắc) ta lại có khuynh hướng đi tìm về cái ác. Đó chính là lý do có lúc ngài phá phiền não để không tạo ra quả, nhưng có lúc ngài nói đến quả muốn nói là không có một cái gí trên đời là ngẫu nhiên mà tất cả đều do hệ thống nhân quả mà ra. Đi lòng vòng một hồi, Chúng tôi muốn nói đến điều đặc biệt của bài kinh này là nói đến: -Cội nguồn của vô minh đó là tứ lậu, tứ lậu thì lại có cội nguồn từ vô minh. -Trình tự của thống duyên khởi đươc Ngài nói xuôi mà nghịch, nghịch mà xuôi -Đề cập đến tam vô lậu hoăc thay vì tứ (Cái này con điền vào theo lời giảng trên của Sư) Khi ngài Xá lợi Phất hỏi chư tăng thế nào là chánh tri kiến và làm thế nào có được chánh tri kiến? Lúc đó chư tăng mới trả lời Ngài là chúng tôi đến đáy để nghe Ngài nói chứ đâu phải là đến đấy để nói vì chư tăng coi ngài là một vị tứ vương chánh pháp, có một lần các vị Thiên vưong mới hỏi Đức thế tôn, ngài là một vị chuyển luân chánh vương thì trong hàng đệ tử của Thế tôn ai là hoàng tử thì Thế Tôn trả lời đó là Xá Lợi Phất nếu xem ta là một ông vua. Nói một cách chân chánh thid Ngài Xá Lợi Phất là con trai của Thế tôn được sanh ra từ Pháp. Từ câu trả lời của chư tăng Ngài Xá Lợi Phất có mở đàu bài thuyết giảng rằng nếu các ông nói thế, xin các ông hãy lắng nghe, Nói về trí tuệ thì Ngài Xa lợi Phất là vị chuyển Pháp luân trí tuệ bậc nhất và nói về hạ lạp thì ngài là 1 trong 1250 đệ tử đầu tiên của Phật giáo. Ngài giảng thế nào là đệ tử có chánh tri kiến? Đó là vị đệ tủ thấy rõ được cái gì là thiện, cái gì là bất thiện, vị chánh đệ tử thấy rõ cái bất thiện và cái nguồn gôc của bất thiện cũng như cái thiện và nguồn gốc của nó, từ cái thấy đó có thể được gọi là chánh chi kiến và khi thấy rõ được 4 cái đó thì được gọi là nền tảng cho lòng tin chánh pháp một cách tuyệt đối. Cái gì là bất thiện? sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối đó là bất thiện, nói đâm thọc là bất thiện. (Ngài Minh Châu có dịch chỗ này là nói hai lưỡi), chỗ này có nói đâm thọc để người ta bất hòa vơi nhau, tham, sân, tà kiến là bất thiện. Thế nguồn gốc của bất thiện là gì? các vị có hoc A tỳ đàm biết rồi, nguồn gốc của bất thiện, cội nguồn của tất cả những điều ác thuộc về khẩu, thân, ý đều từ 3 cội nguồn sau: 1,Tham 2,Sân 3,si Đây được gọi là 3 phiền não cái, Và như thế chánh tri kiến được gọi là tuệ tri. Khi chúng ta xem kinh thì thấy nó bình thường nhưng khi nghe trình bày thì ta hiểu thêm điều đặc biệt, nhiều Phật tử thăc mắc hỏi không biết tôi làm cái đó có tội không, có phước không? Thì tôi xin nói là không Thày nào có thể trả lời mình từng li từng tý như vậy trừ khi người đó là người thân của mình và theo mình quan quán mình khi mình ăn, nói ... thì làm sao có được người đó. Khi học bài kinh này chúng ta có thể tự trả lời caias gì là có tội và cái gì là không có tội. Tiếp theo thế nào là thiện? Từ bỏ sát sanh là thiện, từ bỏ trộm cắp là thiện... Ở đây chúng tôi xin lưu ý khi nói từ bó sát sanh thì ta có thể hiểu là giữ giới sát sanh, mà giữ giới sát sanh không có nghĩa là không sát sanh. Phải có sự cố ý không sát sinh, thì mới gọi là giữ giới không sát sanh. Nếu đơn giản là không có hành động giết chóc thì không gọi là giữ giới. Trong kinh cũng có câu... (Tiếng Pali) có nghĩa là cố ý ngăn trừ không có hành động đó thì đó là giữ giới. Ví dụ như mọi số người họ không có điều kiện để giết gà, đập đầu cá hay con em họ khi còn nhỏ tuổi ngoài giờ ở trường xong đi học thêm như vẽ, đàn, lớn thì học hành đàng hoàng rồi dựng vợ gả chồng rồi làm chức này khia, sướng từ bé đến lớn rồi trong nhà có người ăn kẻ ở thì làm sao họ có cơ hội để sát sanh, nó khó lắm, trừ phi họ cố ý như đàn ông đi câu cá, săn bắn trong rừng thì họ mơi có cơ hội sát sanh mà thôi. Như chúng tôi đang ở Hoa kỳ thì trẻ em đâu có cơ hội đi ra ngoài đồng bắt dế... như thế mình nói trẻ em Hoa kỳ nó giữ giới sát sanh? không, nó không sát sinh không phải là vì nó thương con thú mà là vì nó không có cơ hội để nghĩ đến, làm chuyện đó. Cho nên, không sát sanh chưa phải là giữ giới sát sanh. Nên khi không hoc Phật ta nói tôi không sát sanh là tôi giữ giới, xin thưa không có, Chính về thế ngài Xá Lợi Phất mới kể ra bất thiện là... và ngài thòng thêm 1 câu, thế nào là cội nguội của bất thiện? Đó là tham sân, si. Bất cứ hành động nào bất nguồn từ tham sân si đó là bất thiện. Bất kỳ hành động nào gọi là thiện như là giữ giới, bố thí, tham thiền ta phải hỏi tôi làm điều đó bằng cái tâm gì, đứng có chấp vào cái hình thức, cái trầm mình để vào tay người ta thì hãy hỏi lòng tôi làm điều đó nó là cái tâm gì? Tâm thiện hay tham, bằng tâm cầu danh trục lợi thì cái động tác hành vi bố thí đó nó không phải là việc thiện. Nên cái quan trọng ở đây là ta không chấp cái hình tướng mà phải xem ta làm, nói cái đó bằng tâm gì? Ngài Xá lợi Phất đã dạy rất kỹ ta làm bằng tâm gì trong đạo Khổng có pháp "Chính danh" làm ơn là làm cái gì thì hãy gọi đúng tên của cái đó. Đa phần trong đòi sống chúng ta chưa thực hiện được chuyện này. Sang phần thiện, Ngài kể ra thiện là gì, cội nguồn của thiện đó là không tham, không sân, không si cho chúng sanh hiểu rõ hơn. Giả sử ta không sát sanh, không trộm cắp nhưng động lưc của nhưng cái không đó không phải là không tham không sân không si mà không có điều kiện thì đó cũng chưa là thiện. Có những người bé họ không có điều kiện để làm các giết chóc nhưng đến lúc trưởng thành họ yhanhf nhà nghiên cứu chế tạo vũ khí, thuốc độc giết người, về hình tướng họ không giết nhưng trong lòng họ toàn tham sân si. Ngài Xá Lơi Phật có dạy anh làm việc khoong bậy điều đó quá tốt nhưng cái động cơ nào dẫn anh đến hành động đó, nó phải là không tham, không sân, không si thì hành động đó mới được gọi là thiện. Ví dụ một cậu bé chỉ lo học, không đi bắt dế sát sinh vì lời hứa của mẹ là học xong cho đi bà ngoại chơi thì việc không đi bắt dế, đã cá lia thia, chuồn chuồn không xuất phát từ lòng từ bi thương con vật mà từ lòng tham của một cậu bé trước lời hứa của me thì đó không phải là việc thiện. Khi chúng ta làm viêc ấn tống kinh sách vì lòng háo danh, háo lợi, cầu danh trục lợi thì những hành động đó không được xem là việc thiện bởi vì nó không xuất phát từ thiện tâm. Mình có dư tiền thay vì mình đi đánh bạc, mua xe thì mình bỏ cái tiền đó ra làm từ thiện, cô nhi viện nhà dưỡng lão để khách làm ăn với họ biết họ là người có tiền, là người làm ăn có uy tín, xã hội báo chí biết làm mình làm từ thiện chứ họ không có màng đến thân phận côi cút của những người trong viện dưỡng lão, họ chỉ nghĩ đến họ thôi. Ngài Xá Lợi Phất ở đây giảng rất rõ, nên tôi rất mong là quý vị xem kỹ hai phần này, tôi biết sẽ có một số người sẽ nói chăng có nội dung gì đáng là nội dung tu tập, chánh pháp ở đây cả, ai cũng biết sát sanh là bậy,ăn cắp là bậy tà dâm là bậy ...ai cũng biết, nhưng khổ một điều ở đây Ngài Xá Lợi Phất dạy rất rõ, không có làm điều đó tốt đã đành rồi nhưng xác định là thiện hay ác thì phải xác định cái cội nguồn nào đã tạo ra nó, đây là phần chua nhất. Tại sao mình đam mê, thất niệm vì mình đói quá, đói quá nên mình thích nên khi ăn mình thất niệm, nếu mình chánh niệm thì mình biết mình đang tưới, bón phân cho cái cây này và lúc đó mình phải thấy ăn uống nó là cực hình, điều đau lòng nữa mình làm cực khổ ráng để có tiền còn ăn cái này cái kia cho nó khoái khẩu cho nó vừa miệng, nhưng nhớ là lái gọi là ngon đó chỉ có một chút ít thôi, có từ đầu lưỡi đến cái cuống họng bởi vì khi nó đến cổ đâu còn ngon nữa, nên bỏ ra nhiều tháng nhiều ngày làm lụng có tiền để ăn được món mình thích nhưng nếu mình chánh niệm chút xíu thì sẽ thấy rằng thì ra cái giá cho đoạn từ đàu lưỡi đến cổ họng nó không bao xa mà ta phải trả cho cái giá rất là đắt. Mình đi máy bay từ Đà Nẵng Sài Gòn có mấy trăm ngàn thôi nhưng đoạn chút xíu luỗi đến cổ họng nếu mình có tiền ăn nhiều thứ nó mắc hơn giá vé MB, vd chén yến xào 300k, một bà cụ có thể ăn khoảng 3 chén thấy mình phải trả cái giá quá mắc không? Bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất. Thấy cái đó Đức Phật mới nói cái đoàn thực, tức là thức ăn uống mình tiêu thụ để nuôi dưỡng tấm thân phù du này nó giống hệt như bữa ăn của bà mẹ trong sa mạc vậy đó, Rồi hình ảnh thứ 2 Đức phật dậy cái xúc thực, đó là cái gặp giữa 6 căn và 6 trần, vd mắt nhìn cái đó đẹp quá, khi chưa học thì mình chỉ có thấy cái đó đẹp khi học A ty đàm thì ta biết để nhận biết được cảnh là đẹp thì có nhiều nhiều cái tâm lộ xuất hiện, để mình có thể nghi ngờ cái đó là cái gì, biết cái đó là đẹp hay xấu, đẹp với mình nhưng không đẹp với người khác và mình lại hoàn toàn không biết chuyện đó, rồi mình không biết đẹp hay xấu phụ thuộc vào khoảng cách xa hay gần, cường độ của ánh nắng, gom hết các yếu tố ngoại tại đó lại thì mới thấy, Cho nên xúc thực là chỗ gặp gỡ của xúc Pháp mà phải gặp gỡ một cách hợp lý , ngay trong sự gặp gỡ đó nó đã là một cái khổ rồi. Nên ta thấy cuộc đời này khổ nhiều hơn vui vì tất cả các pháp là vô ngã, khuynh hướng của chúng sinh ác nhiều hơn thiện, ngồi xem phim tàu sướng hơn ngồi nghe pháp, đi bar, ra ngoài xa lộ sướng hơn chứ mẵ cái chứng gì mà ngồi nhà xem kinh sách, ngồi thiền, những cái đó nó khó lắm. Mình đang cơ bắp thế này ngồi bó tay bó chân khó lắm nhưng làm bậy thì dễ lắm, chính vì huynh hướng đó nên đau khổ nhiều hơn vui. Cuộc đời này người ác lúc nào cũng nhiều hơn người thiện, khi nào mà còn lục căn thì người ta sẽ tiếp xúc với lục trần và lục căn thường nhìn thấy lục trần bằng tâm bất toại, cái thế giới này bất thiện nhiều hơn thiện nên đau khổ nhiều hơn hạnh phúc, nên hành giá tứ niệm xứ sẽ hạn chế xúc thực hạn chế tiếp xúc với trần cảnh, nên mình không có chánh niệm mắt láo liên, tai lắng nghe hết cái này đến cái kia ...luôn luôn tìm cái để ghi nhận, khi mà lăng xăng lung tung như vậy thì cái tâm của mình như con nít, mới biết đi biết chạy với cái đầu óc non nớt mà không mang dép dễ gặp mảnh chai, mảnh sành lại mới biết đi nên cái hoa bướm xinh đẹp mát mẻ êm ái nó sẽ gặp ít hơn cái trầy xước, cho nên nếu mình dùng cái xúc của mình nhiều thì trong cái xúc nó đã có vấn đề như đứa bé mới biết đi biết chạy mang không mang dép mad thả ra ngoài đường xá, rừng rậm thì cái đau khổ nó sẽ được nhiều hơn vui. Cho nên ngài nói rằng xúc thưc nó như con bò bị lột da, bị hàng trăm hàng ngàn con ruồi, con muỗi, con nhộng con bồ mắt mà nó bu, quý vị đừng có nói hình ảnh này nó khủng kiếp thếm chỉ cần quý vị cởi trần ra ngoài ruộng lúc sáng sớm ở miền tây Việt Nam chỉ cần mấy con bù mắt nó bám mình cũng phát điên lên chứ đừng nói đến con bò bị lôt da chết thì chưa chết, vẫn sống mà để nó cảm nhận được xúc giác của nó thì cảm giác đau sẽ tăng lên bội phần so với khi có da. Đức Phật dùng cái hình ảnh rất gợi hình khi con bò bị bột da côn trùng nó đốt trích sẽ đau thế nào thì cái xúc thưc ở đây là cái tiếp xúc trần cảnh của chúng sinh ở đây nó cũng như vậy đó. Nên đối với những người không tu tập thì trước các trần cảnh, ngoại cảnh họ cũng bị tấn công ráo riết mãnh liệt từ trần cảnh như vậy đó, nên hành giả là người biết đi dày dép, vớ gang tay đội nón, đeo kính mặc áo bảo hộm hạn chế tối đa những va chạm không cần thiết, những người không có chánh niêm họ để lục căn tiếp xúc với lục trần lại thiếu trí tuệ, chánh niệm thì cái tiếp xúc đó sẽ đau khổ hơn rất nhiều. Đó chỉ nói tới chuyện ăn ngủ thôi, thưc tế ngày nào còn xúc thì ngày đó còn đau khổ, Chúng ta biết Đức Phật không còn tham sân si tuy nhiên vì ngài còn có lục căn, lục xúc nên Ngài vẫn bị đói bị lạnh, bị đau. Chúng ta có biết trong sớ giải có nói Thế tôn bị bênh đau lưng và trong thân của Thế tôn có nhiều bệnh do thời gian Ngài hành xác lúc tu khổ hạnh lúc chưa thành đạo, có những pháp khổ hạnh đi ngược lại với ...(Con nghe không rõ là pháp gì) và nó để lại những di căn mà bây giờ mình gọi là bệnh hậu, do nghiệp xấu đời trước nó dẫn đến việc Ngài phải tu khổ hạnh một thời gian. Vẫn còn thân là còn khổ, Lão Tử hồi xưa có nói "Vì ta có thân nên ta còn khổ" nên cái chuyện có cái thân là cái chuyện lớn như vậy. Baokhanhnice STOP @58.32 [23/04/2024 - 08:12 - baokhanhnice] Ở đây Ngài không nói theo chiều đảo là cái này diệt thì cái kia diệt mà Ngài thuyết về già lão trước, tiếp đó ngài mới ngài nói về sân sau đó mói đến hữu. Vì trên nguyên tắc khi nói về chính kinh, về giáo lý duyên khởi mình được học thì minh nói vô minh hành,thức danh sắc lục nhập, từ sanh rồi thủ rồi ái, nghịch đảo ở đây không phải là nói đến diệt mà nó đảo cái chiều xuôi, ngược trong chiều xuôi Đó là 2 điểm đặc biệt trong bài kinh này (nói về giáo lý duyên khởi ngược và chỉ đề cập đén tam lậu hoặc thay vì tứ lậu hoặc - đây là ý của Sư và con gom lại để văn viết xuôi một chút), 1 điểm nữa đó là khi nói đến tứ lậu thì Ngài không có nói đến tứ lậu mà ngài chỉ nói đến tam lậu hoặc mà thôi đó là dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, thì còn kiến lậu thì Ngài để đâu? Chúng tôi nhớ có một lần khi trình bày về kinh " Nhất thiết lậu hoăc" cũng chỉ trình bày về 3 lậu hoăc Dục lậu là tất cả lòng tham muốn sở hữu, hướng đến 5 hữu lậu Hữu lậu cũng là lòng tham nhưng có sự tái sanh Kiến lậu tức là tham ái có đi chung với 2 tà kiến đó là thường và đoạn kiến Vô minh lậu là cái si mê mà không thấy được, Nói một cách chi tiết là như vậy, nhưng ở trong chánh kinh Nguyên thủy thì có lúc Đức Phật và chư thánh tăng chỉ thuyết có 3 lậu hoặc mà thôi, đó là (Dục lậu, hữu và vô minh lậu) Điểm đặc biết thứ 3, mong các vị lưu ý cho (rất quan trọng và hữu ích) đó là thường khi chúng ta được học về vòng sanh tử luân hồi, cái cuội nguồn đi ra từ vô minh, ít có ai biết được cái vô minh đó nó từ tứ lậu hoăc mà ra, cho nên trong bộ ...(Tiếng Pali) ngài ... có ghi 1 câu: Chúng sanh mà chết cũng do pháp lậu chủng đầu vô minh, Do tứ vô lậu hoăc nên vô minh mới có mặt và tồn tại, ở trong bài kinh Chánh tri kiến này ngài Xá Lợi Phất cũng đi xa thêm 1 bước nữa, thường là mình chỉ nhắc đến cuội nguồn của sanh tử luân hồi là vô minh, rồi thêm chút nữa cội nguồn của vô minh là tứ lậu, ở đây Ngài Xá Lợi Phất đi xa thêm một chút nữa đó là vô minh là cội nguồn của tứ lậu. Chính vì có cái luẩn quẩn này là nó tạo ra vòng luân hồi, và vòng tròn thì nó không có chỗ nào là bắt đầu và chỗ nào là kết thúc. Chúng ta có thể lấy cái nhẫn, cái vòng để kiểm chứng điều này. Tại sao Đức Phật và các vị Thánh tăng lại chọn điểm bắt đầu của vòng luân hồi là vô minh? Các ngài phải chọn ra một cái mắt xích để bắt đầu, chư nó tròn vo kín khít như thế mà để nói chung chúng hiểu thì phải chọn ra một điểm khởi đầu mớicó thể triển khai, trình bày và làm rõ con đường tu chứng, chính vì có mắt, mũi, tai, lưỡi, thân, ý nên nó kéo theo sắc, lục nhập gặp lục trần ra xúc, từ xúc ra thọ, từ thọ mới ra tham ưu và từ đó nảy sinh ra không biết bao nhiêu thế nhiêu khê khác, cho nên chúng ta phải chọn một cái nào đó để nói. Có lúc Ngài chọn cái nhân, có lúc cái quả, cái nhân là nói đến phiền não, chọn cái quả là khi ngài nói đến lục căn hay ngũ uẩn. Cái danh sắc này hay ngũ uẩn này nó là quả của đời trước, chứ bản thân nó không thiệt. Xin quý vị nhớ là bản thân của tai mắt mũi không là thiện hay ác nhưng bản thân mình không có cái thường cận y duynayfv về thiện chủ yếu hoăc nếu có thì răt nhẹ và yếu so với thường cận y duyên thiện từ cái thói quen của mình, từ đó có những khái niệm tàng thức và trên cơ đó người ta mới lấy tâm ý hữu phần gọi tên nó là A lại gia thức. Trong kinh điển Nam tông có ghi rất rõ cái nào là ....(Chỗ này con nghe không có rõ nên con không dám ghi phút 26:07). Cái danh sắc này, mắt mũi tai lưỡi thân ý này, ví dụ cái gọi chúng sinh là ông A, bà B thì con mắt của ông biết cảnh sắc không phải là thiện tương tự cái biết của tai, mũi lưỡi là ý thức và chỉ là biết không có thiện hay ác nhưng do cái tập khí, tiền duyên phiền não và cái tiền duyên này được nuôi dưỡng bằng thói quen nên trong cái quả này (danh sắc) ta lại có khuynh hướng đi tìm về cái ác. Đó chính là lý do có lúc ngài phá phiền não để không tạo ra quả, nhưng có lúc ngài nói đến quả muốn nói là không có một cái gí trên đời là ngẫu nhiên mà tất cả đều do hệ thống nhân quả mà ra. Đi lòng vòng một hồi, Chúng tôi muốn nói đến điều đặc biệt của bài kinh này là nói đến: -Cội nguồn của vô minh đó là tứ lậu, tứ lậu thì lại có cội nguồn từ vô minh. -Trình tự của thống duyên khởi đươc Ngài nói xuôi mà nghịch, nghịch mà xuôi -Đề cập đến tam vô lậu hoăc thay vì tứ (Cái này con điền vào theo lời giảng trên của Sư) Khi ngài Xá lợi Phất hỏi chư tăng thế nào là chánh tri kiến và làm thế nào có được chánh tri kiến? Lúc đó chư tăng mới trả lời Ngài là chúng tôi đến đáy để nghe Ngài nói chứ đâu phải là đến đấy để nói vì chư tăng coi ngài là một vị tứ vương chánh pháp, có một lần các vị Thiên vưong mới hỏi Đức thế tôn, ngài là một vị chuyển luân chánh vương thì trong hàng đệ tử của Thế tôn ai là hoàng tử thì Thế Tôn trả lời đó là Xá Lợi Phất nếu xem ta là một ông vua. Nói một cách chân chánh thid Ngài Xá Lợi Phất là con trai của Thế tôn được sanh ra từ Pháp. Từ câu trả lời của chư tăng Ngài Xá Lợi Phất có mở đàu bài thuyết giảng rằng nếu các ông nói thế, xin các ông hãy lắng nghe, Nói về trí tuệ thì Ngài Xa lợi Phất là vị chuyển Pháp luân trí tuệ bậc nhất và nói về hạ lạp thì ngài là 1 trong 1250 đệ tử đầu tiên của Phật giáo. Ngài giảng thế nào là đệ tử có chánh tri kiến? Đó là vị đệ tủ thấy rõ được cái gì là thiện, cái gì là bất thiện, vị chánh đệ tử thấy rõ cái bất thiện và cái nguồn gôc của bất thiện cũng như cái thiện và nguồn gốc của nó, từ cái thấy đó có thể được gọi là chánh chi kiến và khi thấy rõ được 4 cái đó thì được gọi là nền tảng cho lòng tin chánh pháp một cách tuyệt đối. Cái gì là bất thiện? sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối đó là bất thiện, nói đâm thọc là bất thiện. (Ngài Minh Châu có dịch chỗ này là nói hai lưỡi), chỗ này có nói đâm thọc để người ta bất hòa vơi nhau, tham, sân, tà kiến là bất thiện. Thế nguồn gốc của bất thiện là gì? các vị có hoc A tỳ đàm biết rồi, nguồn gốc của bất thiện, cội nguồn của tất cả những điều ác thuộc về khẩu, thân, ý đều từ 3 cội nguồn sau: 1,Tham 2,Sân 3,si Đây được gọi là 3 phiền não cái, Và như thế chánh tri kiến được gọi là tuệ tri. Khi chúng ta xem kinh thì thấy nó bình thường nhưng khi nghe trình bày thì ta hiểu thêm điều đặc biệt, nhiều Phật tử thăc mắc hỏi không biết tôi làm cái đó có tội không, có phước không? Thì tôi xin nói là không Thày nào có thể trả lời mình từng li từng tý như vậy trừ khi người đó là người thân của mình và theo mình quan quán mình khi mình ăn, nói ... thì làm sao có được người đó. Khi học bài kinh này chúng ta có thể tự trả lời caias gì là có tội và cái gì là không có tội. Tiếp theo thế nào là thiện? Từ bỏ sát sanh là thiện, từ bỏ trộm cắp là thiện... Ở đây chúng tôi xin lưu ý khi nói từ bó sát sanh thì ta có thể hiểu là giữ giới sát sanh, mà giữ giới sát sanh không có nghĩa là không sát sanh. Phải có sự cố ý không sát sinh, thì mới gọi là giữ giới không sát sanh. Nếu đơn giản là không có hành động giết chóc thì không gọi là giữ giới. Trong kinh cũng có câu... (Tiếng Pali) có nghĩa là cố ý ngăn trừ không có hành động đó thì đó là giữ giới. Ví dụ như mọi số người họ không có điều kiện để giết gà, đập đầu cá hay con em họ khi còn nhỏ tuổi ngoài giờ ở trường xong đi học thêm như vẽ, đàn, lớn thì học hành đàng hoàng rồi dựng vợ gả chồng rồi làm chức này khia, sướng từ bé đến lớn rồi trong nhà có người ăn kẻ ở thì làm sao họ có cơ hội để sát sanh, nó khó lắm, trừ phi họ cố ý như đàn ông đi câu cá, săn bắn trong rừng thì họ mơi có cơ hội sát sanh mà thôi. Như chúng tôi đang ở Hoa kỳ thì trẻ em đâu có cơ hội đi ra ngoài đồng bắt dế... như thế mình nói trẻ em Hoa kỳ nó giữ giới sát sanh? không, nó không sát sinh không phải là vì nó thương con thú mà là vì nó không có cơ hội để nghĩ đến, làm chuyện đó. Cho nên, không sát sanh chưa phải là giữ giới sát sanh. Nên khi không hoc Phật ta nói tôi không sát sanh là tôi giữ giới, xin thưa không có, Chính về thế ngài Xá Lợi Phất mới kể ra bất thiện là... và ngài thòng thêm 1 câu, thế nào là cội nguội của bất thiện? Đó là tham sân, si. Bất cứ hành động nào bất nguồn từ tham sân si đó là bất thiện. Bất kỳ hành động nào gọi là thiện như là giữ giới, bố thí, tham thiền ta phải hỏi tôi làm điều đó bằng cái tâm gì, đứng có chấp vào cái hình thức, cái trầm mình để vào tay người ta thì hãy hỏi lòng tôi làm điều đó nó là cái tâm gì? Tâm thiện hay tham, bằng tâm cầu danh trục lợi thì cái động tác hành vi bố thí đó nó không phải là việc thiện. Nên cái quan trọng ở đây là ta không chấp cái hình tướng mà phải xem ta làm, nói cái đó bằng tâm gì? Ngài Xá lợi Phất đã dạy rất kỹ ta làm bằng tâm gì trong đạo Khổng có pháp "Chính danh" làm ơn là làm cái gì thì hãy gọi đúng tên của cái đó. Đa phần trong đòi sống chúng ta chưa thực hiện được chuyện này. Sang phần thiện, Ngài kể ra thiện là gì, cội nguồn của thiện đó là không tham, không sân, không si cho chúng sanh hiểu rõ hơn. Giả sử ta không sát sanh, không trộm cắp nhưng động lưc của nhưng cái không đó không phải là không tham không sân không si mà không có điều kiện thì đó cũng chưa là thiện. Có những người bé họ không có điều kiện để làm các giết chóc nhưng đến lúc trưởng thành họ yhanhf nhà nghiên cứu chế tạo vũ khí, thuốc độc giết người, về hình tướng họ không giết nhưng trong lòng họ toàn tham sân si. Ngài Xá Lơi Phật có dạy anh làm việc khoong bậy điều đó quá tốt nhưng cái động cơ nào dẫn anh đến hành động đó, nó phải là không tham, không sân, không si thì hành động đó mới được gọi là thiện. Ví dụ một cậu bé chỉ lo học, không đi bắt dế sát sinh vì lời hứa của mẹ là học xong cho đi bà ngoại chơi thì việc không đi bắt dế, đã cá lia thia, chuồn chuồn không xuất phát từ lòng từ bi thương con vật mà từ lòng tham của một cậu bé trước lời hứa của me thì đó không phải là việc thiện. Khi chúng ta làm viêc ấn tống kinh sách vì lòng háo danh, háo lợi, cầu danh trục lợi thì những hành động đó không được xem là việc thiện bởi vì nó không xuất phát từ thiện tâm. Mình có dư tiền thay vì mình đi đánh bạc, mua xe thì mình bỏ cái tiền đó ra làm từ thiện, cô nhi viện nhà dưỡng lão để khách làm ăn với họ biết họ là người có tiền, là người làm ăn có uy tín, xã hội báo chí biết làm mình làm từ thiện chứ họ không có màng đến thân phận côi cút của những người trong viện dưỡng lão, họ chỉ nghĩ đến họ thôi. Ngài Xá Lợi Phất ở đây giảng rất rõ, nên tôi rất mong là quý vị xem kỹ hai phần này, tôi biết sẽ có một số người sẽ nói chăng có nội dung gì đáng là nội dung tu tập, chánh pháp ở đây cả, ai cũng biết sát sanh là bậy,ăn cắp là bậy tà dâm là bậy ...ai cũng biết, nhưng khổ một điều ở đây Ngài Xá Lợi Phất dạy rất rõ, không có làm điều đó tốt đã đành rồi nhưng xác định là thiện hay ác thì phải xác định cái cội nguồn nào đã tạo ra nó, đây là phần chua nhất. Tại sao mình đam mê, thất niệm vì mình đói quá, đói quá nên mình thích nên khi ăn mình thất niệm, nếu mình chánh niệm thì mình biết mình đang tưới, bón phân cho cái cây này và lúc đó mình phải thấy ăn uống nó là cực hình, điều đau lòng nữa mình làm cực khổ ráng để có tiền còn ăn cái này cái kia cho nó khoái khẩu cho nó vừa miệng, nhưng nhớ là lái gọi là ngon đó chỉ có một chút ít thôi, có từ đầu lưỡi đến cái cuống họng bởi vì khi nó đến cổ đâu còn ngon nữa, nên bỏ ra nhiều tháng nhiều ngày làm lụng có tiền để ăn được món mình thích nhưng nếu mình chánh niệm chút xíu thì sẽ thấy rằng thì ra cái giá cho đoạn từ đàu lưỡi đến cổ họng nó không bao xa mà ta phải trả cho cái giá rất là đắt. Mình đi máy bay từ Đà Nẵng Sài Gòn có mấy trăm ngàn thôi nhưng đoạn chút xíu luỗi đến cổ họng nếu mình có tiền ăn nhiều thứ nó mắc hơn giá vé MB, vd chén yến xào 300k, một bà cụ có thể ăn khoảng 3 chén thấy mình phải trả cái giá quá mắc không? Bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất. Thấy cái đó Đức Phật mới nói cái đoàn thực, tức là thức ăn uống mình tiêu thụ để nuôi dưỡng tấm thân phù du này nó giống hệt như bữa ăn của bà mẹ trong sa mạc vậy đó, Rồi hình ảnh thứ 2 Đức phật dậy cái xúc thực, đó là cái gặp giữa 6 căn và 6 trần, vd mắt nhìn cái đó đẹp quá, khi chưa học thì mình chỉ có thấy cái đó đẹp khi học A ty đàm thì ta biết để nhận biết được cảnh là đẹp thì có nhiều nhiều cái tâm lộ xuất hiện, để mình có thể nghi ngờ cái đó là cái gì, biết cái đó là đẹp hay xấu, đẹp với mình nhưng không đẹp với người khác và mình lại hoàn toàn không biết chuyện đó, rồi mình không biết đẹp hay xấu phụ thuộc vào khoảng cách xa hay gần, cường độ của ánh nắng, gom hết các yếu tố ngoại tại đó lại thì mới thấy, Cho nên xúc thực là chỗ gặp gỡ của xúc Pháp mà phải gặp gỡ một cách hợp lý , ngay trong sự gặp gỡ đó nó đã là một cái khổ rồi. Nên ta thấy cuộc đời này khổ nhiều hơn vui vì tất cả các pháp là vô ngã, khuynh hướng của chúng sinh ác nhiều hơn thiện, ngồi xem phim tàu sướng hơn ngồi nghe pháp, đi bar, ra ngoài xa lộ sướng hơn chứ mẵ cái chứng gì mà ngồi nhà xem kinh sách, ngồi thiền, những cái đó nó khó lắm. Mình đang cơ bắp thế này ngồi bó tay bó chân khó lắm nhưng làm bậy thì dễ lắm, chính vì huynh hướng đó nên đau khổ nhiều hơn vui. Cuộc đời này người ác lúc nào cũng nhiều hơn người thiện, khi nào mà còn lục căn thì người ta sẽ tiếp xúc với lục trần và lục căn thường nhìn thấy lục trần bằng tâm bất toại, cái thế giới này bất thiện nhiều hơn thiện nên đau khổ nhiều hơn hạnh phúc, nên hành giá tứ niệm xứ sẽ hạn chế xúc thực hạn chế tiếp xúc với trần cảnh, nên mình không có chánh niệm mắt láo liên, tai lắng nghe hết cái này đến cái kia ...luôn luôn tìm cái để ghi nhận, khi mà lăng xăng lung tung như vậy thì cái tâm của mình như con nít, mới biết đi biết chạy với cái đầu óc non nớt mà không mang dép dễ gặp mảnh chai, mảnh sành lại mới biết đi nên cái hoa bướm xinh đẹp mát mẻ êm ái nó sẽ gặp ít hơn cái trầy xước, cho nên nếu mình dùng cái xúc của mình nhiều thì trong cái xúc nó đã có vấn đề như đứa bé mới biết đi biết chạy mang không mang dép mad thả ra ngoài đường xá, rừng rậm thì cái đau khổ nó sẽ được nhiều hơn vui. Cho nên ngài nói rằng xúc thưc nó như con bò bị lột da, bị hàng trăm hàng ngàn con ruồi, con muỗi, con nhộng con bồ mắt mà nó bu, quý vị đừng có nói hình ảnh này nó khủng kiếp thếm chỉ cần quý vị cởi trần ra ngoài ruộng lúc sáng sớm ở miền tây Việt Nam chỉ cần mấy con bù mắt nó bám mình cũng phát điên lên chứ đừng nói đến con bò bị lôt da chết thì chưa chết, vẫn sống mà để nó cảm nhận được xúc giác của nó thì cảm giác đau sẽ tăng lên bội phần so với khi có da. Đức Phật dùng cái hình ảnh rất gợi hình khi con bò bị bột da côn trùng nó đốt trích sẽ đau thế nào thì cái xúc thưc ở đây là cái tiếp xúc trần cảnh của chúng sinh ở đây nó cũng như vậy đó. Nên đối với những người không tu tập thì trước các trần cảnh, ngoại cảnh họ cũng bị tấn công ráo riết mãnh liệt từ trần cảnh như vậy đó, nên hành giả là người biết đi dày dép, vớ gang tay đội nón, đeo kính mặc áo bảo hộm hạn chế tối đa những va chạm không cần thiết, những người không có chánh niêm họ để lục căn tiếp xúc với lục trần lại thiếu trí tuệ, chánh niệm thì cái tiếp xúc đó sẽ đau khổ hơn rất nhiều. Đó chỉ nói tới chuyện ăn ngủ thôi, thưc tế ngày nào còn xúc thì ngày đó còn đau khổ, Chúng ta biết Đức Phật không còn tham sân si tuy nhiên vì ngài còn có lục căn, lục xúc nên Ngài vẫn bị đói bị lạnh, bị đau. Chúng ta có biết trong sớ giải có nói Thế tôn bị bênh đau lưng và trong thân của Thế tôn có nhiều bệnh do thời gian Ngài hành xác lúc tu khổ hạnh lúc chưa thành đạo, có những pháp khổ hạnh đi ngược lại với ...(Con nghe không rõ là pháp gì) và nó để lại những di căn mà bây giờ mình gọi là bệnh hậu, do nghiệp xấu đời trước nó dẫn đến việc Ngài phải tu khổ hạnh một thời gian. Vẫn còn thân là còn khổ, Lão Tử hồi xưa có nói "Vì ta có thân nên ta còn khổ" nên cái chuyện có cái thân là cái chuyện lớn như vậy. Baokhanhnice STOP @58.32 [23/04/2024 - 11:24 - baokhanhnice] Ở đây Đức Phật nói còn cái thân là còn có xúc, có sự tiếp xúc giữa lục căn và lục trần, khi nào còn có cơ hội tiếp xúc thì còn có cơ hội đau khổ nhiều hơn hạnh phúc, cũng giống như con bò bị lột da nếu nó chết thì không nói đằng này nó không chết và khả năng bị các côn trùng tấn công rất cao. Chắc quý vị có thể hình dung ra cái cảm giác đau đớn mà con bò nó phải chịu như thế nàò. Đức Phật lấy hình ảnh con bò đó chỉ cho xúc thưc. Cái thứ ba, đó là tư niệm thực, đối với cái này Đức Phật dùng 1 hình ảnh không ghê sợ như trên nó là gợi cảm, không phải nghĩa gơi cảm thông thường là hấp dẫn mà là nó gợi cho mình một cảm giác rất khao khát mãnh liệt, ngài ví dụ giống như những con phù du cắm đầu xuống cái hố, bị đẩy vào một cái hố tàng hình thì nó như thế nào quý vị thử nghĩ xem, khi còn sống thì mình còn phải toan tính làm cái này cái kia, ở đây có 2 trường hợp,không có tu hành, tạo không biết chính khí, không biết thế nào là lẽ phải thì họ sẽ hành động theo bản năng tính dục của họ ví dụ làm sao cho họ vui thì thôi, họ lo hưởng thụ bất chấp sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối uống rượu, nó làm cho người khác tan nhà nát cửa, đổ máu đổ lệ vì chuyện đó, còn biết hàm dưỡng nội tâm của mình thì cũng là những điều tính toán có lợi cho mình, cho người, cho đời sau Tất cả những đầu tư tính toán đó đều là tư niệm thực, các vì còn nhớ câu tam giới như hỏa trạch, tất cả toan tính của mình đều có ý nghĩa là chọn 1 chỗ nào đó trong ngôi nhà đang cháy mà thôi, hành động thông minh nhất lúc đó là chạy ra ngoài. (Băng bị lỗi nên không có ghi âm khoảng 30"... @ 1:01.50 Sự tồn tại của chữ hữu, ở đây có hiện hữu nên dẫn đến sở hữu, chính có nghiệp hữu mới có sanh hữu, chính có sự cố ý làm điều ác nó tạo ra cảnh giới ác, chính có sự cố ý trong hành động thiện nên có sự tái sanh an lạc, dù là cõi tái sinh an lạc hay đau khổ cũng đều là phù du, quẩn quanh trong vòng sanh tử luân hồi, cho nên Đức Thế Tôn dạy mọi sự đầu tư ý thức, mọi sự cố ý trong các hành động thiện ác của mình dù lớn dù nhỏ nó cũng chỉ là 1 cái hố than mà mọi người đâm đầu vào trong đó để cùng chết với nhau. nên Đức Phật mới dùng hình ảnh con phù du cắm đầu vào đó chết, ở Việt nam mình khi đốt đèn dầu quý vị thấy mấy con phù du, thiêu thân nó khoái đâm đầu vào ngọn đèn đó, nó lạ như vậy. Ở bên Mỹ trên mấy con đường vắng nhỏ có mấy con con trùng nhỏ kêu là con uyên ương thấy xe chạy là cứ căm đàu vào xe, mà nó lạ lắm, nó cứ đi 1 cặp, thân xác nó rất mong manh lại nước nhiều hơn cái nên khi va vào xe nó nổ bung ra như vệt nước mưa nên một lần như thế về mình phải rửa xe, nhìn dơ như bị chim ỉa vậy. Chúng sinh cũng vậy đau khổ quá, bị thất tình, lỡ vận công danh mình đi đánh lộn trốn cái khổ A bằng cái khổ B rồi có người thấy đời khổ quá bố thí, trì giới làm lành mong sanh về cõi trời, nhưng đâu có cõi trời nào là biên điển trơn tru đâu, no cũng có lúc hết rồi lại xuống làm con dòi con bọ, là vì cái khuynh hướng bản năng bất thiện của mình nó vốn dĩ nhiều hơn thiện, cho nên chỉ cần từ trên trời sanh xuống rồi có bạn ác gặp môi trường xã hội không thuận tiện cho việc tu tập những hạnh lành lập tức ngựa quen đường cũ. Đức Phật ngài dậy tư niệm thực là sự cố ý làm gì đó, là tư tưởng, lý tưởng sống (chúng tôi dùng từ này cho đại chúng dễ hiểu), nó dẫn mình đi những con đường, những trú xứ trong cõi ta bà đau khổ này. Chính cái lý tưởng đó Đức Phật ví như một khối than Thứ tư đó là thức thực Đức Phật dùng hình ảnh rất độc đáo như có 1 người tù sáng lấy mũi dao đâm trăm lỗ, trưa bị đâm trăm lỗ bị chiều lại lấy ra đâm hàng trăm lỗ, như thế trong một ngày bị ba trăm lỗ, cứ tiếp tục như vậy ngày hôm sau cũng bị. Cái tâm thức của chúng ta cũng giống như vậy đó không có đội nón, không đeo găng tay thì khi bỏ nó ra đường xá, trong rừng rậm nó bị trầy xước bị chảy máu bị gai đâm, bị quẹt vô mắt, quẹt vô thân hình thì nó như thế nào, chính vì thế khi có một cái tâm hướng ngoại đi tìm trần cảnh thì cái tâm đó dứt khoát nó bị đau, bởi vì cái thế giới này không phải là thiên đường, thiên đường chỉ là một từ ngữ nói cho vui mà thôi, chứ thật ra ngày nào cái tâm của mình còn rong ruổi còn đau khổ, nói theo A tỳ đàm thì trong mỗi sắc na đã có vô thường, khổ, vô ngã rồi, nhưng khổ là nói không ai thấy, không ai tin, thôi bây giờ mình nói ở ngoài đi không có nói đến cái khổ, mình chỉ nói một điều là khi nào anh để cái nhận thức của anh ra lục trần thì cái khổ của anh nó sẽ nhiều hơn vui vì sao? vì thế gian là vô ngã và bản chất của thế giới là bất thiện nhiều hơn thiện thế là đau khổ luôn nhiều hơn là hạnh phúc và nếu như vậy thì cái chúng ta đón nhận được từ thưc thức sẽ khổ nhiều, chính vì thế Đức Phật có dạy rằng cái thức thực nó giống hết như là cái hình ảnh của người tử tù người ta đem ra thọc hết lỗ này đến lỗ khác. Ngày nào thức thực còn tồn tại thì chúng ta còn đau khổ Vậy là chúng ta đã nắm được một phần nội dung của kinh "Chánh tri kiến" cái cách dùng hình ảnh của Đức Phật để chỉ ra bốn thứ tự tánh: Đoàn thực như bữa ăn của một bà mẹ trên sa mạc, Xúc thực như con bò bị lột da bị tấn công bởi côn trùng Tư niệm thực như cái hố tàng hình bị người lực sỹ đẩy người yếu hơn xuống Thức thực như là người tù bị người ta đâm nhiều lần (...con nghe không rõ phần Sư giải thích thêm) Đối với các vị Thánh đệ tử nếu hiểu được rõ 4 thứ thực phẩm này cũng được gọi là chánh chi kiến. nếu đọc sơ qua mình sẽ nói 4 thứ thực phẩm có gì mà sâu sắc, nhưng qua bài kinh chúng tôi vừa trình bày mình thấy nó sẽ khác đi, nguwoif tu hành nhìn cuộc đời nó khác đi nhiều, chính cái nhìn đó được gọi là chánh chi kiến, nếu không có đủ duyên lành để đắc quả Thánh nhân thì ít nhất cái nhìn của chúng ta về tam tướng, về thế giới này nó cũng khác. Baokhanhnice STOP @ 1:10:10 [24/04/2024 - 11:25 - baokhanhnice] và khi đó chắc chắn chúng ta sẽ gặt được nhiều kết quả trên con đường tu học hơn,chúng tôi cũng hy vọng bài giảng tối nay, tuy nó chỉ là phần nhỏ của kinh " Chánh tri kiến" nhưng cũng trả lời được Phật tử một số câu hỏi trong cuộc sống tu hành của mình,chúng tôi xin chia sẻ Công đức này dù hay dù dở đến toàn bộ chúng sanh trong 3 giới 4 loài không phân biệt, các vị long thần hộ pháp thọ lãnh phước báu này rồi hộ trì cho chúng ta luôn luôn được đắc trì sở nguyện tu hành thỏa mái, NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÔ NI PHẬT. Chúng tôi vừa mở trang web của thầy Bình An Sơn để nhìn thẳng vào chánh kinh mà giảng, nên chúng tôi phải minimize screen lại để thấy hết bài kinh. Tiếp theo ngài Xá Lợi Phất ngài giải thích rằng các tỳ kheo đủ trí huệ mà hiểu được 4 thứ thực phẩm đó, 4 thứ tập khí sanh tử đó thì được gọi là chánh tri kiến, chư Tăng mới hỏi Ngài có con đường nào khác mà dẫn đến chánh tri kiến hay không? Có một con đường nào khác được gọi là chánh tri kiến hay không? Thì Ngài trả lời là có, nếu quý vị có được quyển tóm lược Trung Bộ Kinh của Sư cô Trí Hải thì tốt, còn không thì các vị vừa phải nghe vừa phải ghi vào cuốn sổ tay để tóm tắt nội dung,thực tình thì chúng tôi cũng không có được cuốn đó và cũng chưa tìm ra trong web của thầy Bình An Sơn, chúng tôi chỉ trình bày theo trong sớ thôi. Ngài Xá Lợi Phất nói có một vấn đề mà nếu các vị tỳ kheo, thánh đệ tử hiểu được thì cũng được gọi là chánh tri kiến, cũng là con đường dẫn đến chánh tri kiến, thì con đường đó là hiểu được 1 chữ thôi, đó là "KHỔ". Thì ở đây chúng tôi cũng xin lưu ý các vị Phật tử có một điều đó là có nhiều người họ kể Tứ diệu đế là 4: khổ, tập, diệt, đạo, nói như vậy là đúng chứ không có sai, chúng tôi xin xác định lại cho các vị rõ, tuy nhiên nếu mình nói tứ diệu đế chỉ bàn đến 1 vấn đề KHỔ cũng đúng chứ không có sai. Lý do mà tại sao chúng ta chỉ có nói đến 1 chữ KHỔ, có lẽ chúng ta theo dõi cũng sẽ biết theo cách phân tích ở đây của ngài Xá Lợi Phất ở đây thì rõ ràng là tứ diệu đế chỉ bàn đến 1 vấn đề đó là KHỔ, vị tỳ kheo hiểu được KHỔ là gì, đó là hiểu được cội nguồn, cứu cánh chấm dứt đau khổ và hiểu rõ con đường dẫn đến cứu cánh thoát khổ đó thì được gọi là chánh tri kiến. Và nếu KHỔ nó bao gồm 4 thứ như thế tức là Ngài Xá Lợi Phất đang bàn về tứ diệu đế, cho nên nếu chúng ta chỉ đọc phơt phớt qua rồi cộng với kiến thức kinh nghiệm giáo lý của mình thì ở đây mình không phát hiện ra cái gì cả, chẳng hạn ở đây chúng tôi hơi lạc đề một chút cũng như cho đến hôm nay theo các nhà học giả thì người ta nói rằng ngay câu đầu tiên trong ĐaỌ Đức kinh tương truyền do Lão Tử viết có câu "Đạo khả đạo, phi thường đạo, khanh khả danh, phi thường danh" thì nguwoif ta nói rằng mình có thể chấm phết thỏa mái (tức là đặt dấu ., chỗ nào trong câu cũng đươc) thì các vị sẽ có cái hiểu khác nhau về câu nói rất nổi tiếng này.Nên kinh điển nhiều khi có nhiều cách đọc cách xem nhưng nhớ lấy kinh làm gốc, quý vị dò thẳng vào chánh kinh xem rất thú vị.Khi mình quen nói đến khổ,tập, diệt, đạo là 4, tứ diệu đế nói đến 4 vấn đề đúng chứ không phải sai nhưng xem kỹ chánh kinh mới thấy, Ngài Xá Lợi Phất chỉ nói đến KHỔ, Chánh tri kiến ở đây là hiểu rõ cái khổ, khởi hay là con đường dẫn đến khổ, hiểu rõ cứu cánh nào để chấm dứt cái khổ và hiểu rõ con đường nào dẫn đến cứu cánh đó. Tứ diệu đế chỉ xoay quanh 1 vấn đề KHỔ, đọc trong chánh sớ quý vị sẽ thấy rõ điều này và đặc biệt có vị nào đã từng xem bài giảng của bà thiền sư Achannet mà được viết bằng sách, thì bà không có viết sách do Chư tăng, Phật tử nghe và ghi âm lại, tuy nhiên người ta có sửa đổi cho nó thành 1 cuốn sách nghiêm chỉnh, thì dĩ nhiên là có rồi, nhưng thật sự mà nói bà có để lại rất nhiều sách kiểu như vậy tức là phần chú giảng. Trong các bài giảng bà nhắc đi nhắc lại vấn đề nói về tứ diệu đế là 4 hay 1 đều đúng và bà còn nói thêm toàn bộ Tam tạng của Đức Phật chỉ nói chữ KHỔ cũng không trật. Dầu là giới, định, tuệ, chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng rồi 37 Pháp trợ Bồ đề, đề mục thiền chỉ, tứ niệm xứ....cũng chỉ bàn đến 1 chữ KHỔ thôi. Chính vì thế đêm nay chúng tôi đề nghị quý vị mở đươc trang Web của ông Bình An Sơn thì tốt, ấn bản của Vạn Hạnh cũng tốt, thì mình để ý đọc theo kiểu mới đi, theo kiểu bà Achannet hoặc chánh sớ đề nghị thì mình sẽ hiểu tứ diệu đế chỉ bàn đến vấn đề KHỔ. Ở đây ngài Xá Lợi Phất giảng vị tỳ kheo hiểu được 4 khía cạnh của KHỔ thì vị tỳ kheo đã có chánh tri kiến: Khổ đế: Ở đây ngài Xá Lợi Phật trình bày trên nhiều đề tài giáo lý khác nhau nhưng xét trên Vi diệu phấp có những đề tài nó trùng lặp nhau, ví dụ như tứ diệu đế tất nhiên có khổ đế rồi, ngài đề cập đến cái khía cạnh đầu tiên của khổ chính là bản chất của khổ, thì ngài phân tích cái khổ cho tới nơi tới chốn bao gồm sanh, già, đau chết, sầu, bi, khổ, ưu não, một lát nữa thì trong bài kinh cũng sanh, già đau, chết nằm ở dưới bài kinh này, cho nên chúng tôi quyết định làm gọn lại cho các Phật tử khỏi bị rối vì Ngài giảng cho đại chúng tỳ kheo nghe bằng thời giảng bằng miệng chứ không phải bằng sách, cho nên ngài tìm cách ôn tới ôn lui, còn hôm nay chúng ta có thể thưởng thức, gặm nhấm, thấm thía bài kinh này bằng trang giấy, mặt chữ này,nên chúng ta thấy rằng Đức Phật, chư thánh tăng nhắc đi nhăc lại mà chúng ta không để ý một chuyện là đời xưa các vị chỉ giảng bằng miệng cho người khác nghe bằng tai, chứ không có chuyện viết sách cho đọc bằng mắt hoặc thuyết giảng bằng băng cassette. Đã nói đến tứ diệu đế sau khi bàn đến sanh, già, bệnh chết chúng tôi nói phớt phớt mà thôi, trong 12 duyên khởi ngài viết theo cái cách nghịch đảo, hôm qua có nói đến 3 điểm đặc biệt của bài kinh này: 1. Ngài nói 3 lậu hoăc thay vì 4 2. Cách thức nghich đảo 3. Cội nguồn của sanh tử luân hồi nói một cách nôm na, chú ý chữ nôm na, thông thường phổ cập đại chúng thì vô minh là cội nguồn của đau khổ nhưng vô minh có từ các lậu hoặc nhưng các lậu hoăc có cội nguồn từ vô minh. Nói đặc biệt vì ta khó bắt gặp ở các bài kinh khác. Baokhanhnice STOP @1:22 [24/04/2024 - 11:25 - baokhanhnice] và khi đó chắc chắn chúng ta sẽ gặt được nhiều kết quả trên con đường tu học hơn,chúng tôi cũng hy vọng bài giảng tối nay, tuy nó chỉ là phần nhỏ của kinh " Chánh tri kiến" nhưng cũng trả lời được Phật tử một số câu hỏi trong cuộc sống tu hành của mình,chúng tôi xin chia sẻ Công đức này dù hay dù dở đến toàn bộ chúng sanh trong 3 giới 4 loài không phân biệt, các vị long thần hộ pháp thọ lãnh phước báu này rồi hộ trì cho chúng ta luôn luôn được đắc trì sở nguyện tu hành thỏa mái, NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÔ NI PHẬT. Chúng tôi vừa mở trang web của thầy Bình An Sơn để nhìn thẳng vào chánh kinh mà giảng, nên chúng tôi phải minimize screen lại để thấy hết bài kinh. Tiếp theo ngài Xá Lợi Phất ngài giải thích rằng các tỳ kheo đủ trí huệ mà hiểu được 4 thứ thực phẩm đó, 4 thứ tập khí sanh tử đó thì được gọi là chánh tri kiến, chư Tăng mới hỏi Ngài có con đường nào khác mà dẫn đến chánh tri kiến hay không? Có một con đường nào khác được gọi là chánh tri kiến hay không? Thì Ngài trả lời là có, nếu quý vị có được quyển tóm lược Trung Bộ Kinh của Sư cô Trí Hải thì tốt, còn không thì các vị vừa phải nghe vừa phải ghi vào cuốn sổ tay để tóm tắt nội dung,thực tình thì chúng tôi cũng không có được cuốn đó và cũng chưa tìm ra trong web của thầy Bình An Sơn, chúng tôi chỉ trình bày theo trong sớ thôi. Ngài Xá Lợi Phất nói có một vấn đề mà nếu các vị tỳ kheo, thánh đệ tử hiểu được thì cũng được gọi là chánh tri kiến, cũng là con đường dẫn đến chánh tri kiến, thì con đường đó là hiểu được 1 chữ thôi, đó là "KHỔ". Thì ở đây chúng tôi cũng xin lưu ý các vị Phật tử có một điều đó là có nhiều người họ kể Tứ diệu đế là 4: khổ, tập, diệt, đạo, nói như vậy là đúng chứ không có sai, chúng tôi xin xác định lại cho các vị rõ, tuy nhiên nếu mình nói tứ diệu đế chỉ bàn đến 1 vấn đề KHỔ cũng đúng chứ không có sai. Lý do mà tại sao chúng ta chỉ có nói đến 1 chữ KHỔ, có lẽ chúng ta theo dõi cũng sẽ biết theo cách phân tích ở đây của ngài Xá Lợi Phất ở đây thì rõ ràng là tứ diệu đế chỉ bàn đến 1 vấn đề đó là KHỔ, vị tỳ kheo hiểu được KHỔ là gì, đó là hiểu được cội nguồn, cứu cánh chấm dứt đau khổ và hiểu rõ con đường dẫn đến cứu cánh thoát khổ đó thì được gọi là chánh tri kiến. Và nếu KHỔ nó bao gồm 4 thứ như thế tức là Ngài Xá Lợi Phất đang bàn về tứ diệu đế, cho nên nếu chúng ta chỉ đọc phơt phớt qua rồi cộng với kiến thức kinh nghiệm giáo lý của mình thì ở đây mình không phát hiện ra cái gì cả, chẳng hạn ở đây chúng tôi hơi lạc đề một chút cũng như cho đến hôm nay theo các nhà học giả thì người ta nói rằng ngay câu đầu tiên trong ĐaỌ Đức kinh tương truyền do Lão Tử viết có câu "Đạo khả đạo, phi thường đạo, khanh khả danh, phi thường danh" thì nguwoif ta nói rằng mình có thể chấm phết thỏa mái (tức là đặt dấu ., chỗ nào trong câu cũng đươc) thì các vị sẽ có cái hiểu khác nhau về câu nói rất nổi tiếng này.Nên kinh điển nhiều khi có nhiều cách đọc cách xem nhưng nhớ lấy kinh làm gốc, quý vị dò thẳng vào chánh kinh xem rất thú vị.Khi mình quen nói đến khổ,tập, diệt, đạo là 4, tứ diệu đế nói đến 4 vấn đề đúng chứ không phải sai nhưng xem kỹ chánh kinh mới thấy, Ngài Xá Lợi Phất chỉ nói đến KHỔ, Chánh tri kiến ở đây là hiểu rõ cái khổ, khởi hay là con đường dẫn đến khổ, hiểu rõ cứu cánh nào để chấm dứt cái khổ và hiểu rõ con đường nào dẫn đến cứu cánh đó. Tứ diệu đế chỉ xoay quanh 1 vấn đề KHỔ, đọc trong chánh sớ quý vị sẽ thấy rõ điều này và đặc biệt có vị nào đã từng xem bài giảng của bà thiền sư Achannet mà được viết bằng sách, thì bà không có viết sách do Chư tăng, Phật tử nghe và ghi âm lại, tuy nhiên người ta có sửa đổi cho nó thành 1 cuốn sách nghiêm chỉnh, thì dĩ nhiên là có rồi, nhưng thật sự mà nói bà có để lại rất nhiều sách kiểu như vậy tức là phần chú giảng. Trong các bài giảng bà nhắc đi nhắc lại vấn đề nói về tứ diệu đế là 4 hay 1 đều đúng và bà còn nói thêm toàn bộ Tam tạng của Đức Phật chỉ nói chữ KHỔ cũng không trật. Dầu là giới, định, tuệ, chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng rồi 37 Pháp trợ Bồ đề, đề mục thiền chỉ, tứ niệm xứ....cũng chỉ bàn đến 1 chữ KHỔ thôi. Chính vì thế đêm nay chúng tôi đề nghị quý vị mở đươc trang Web của ông Bình An Sơn thì tốt, ấn bản của Vạn Hạnh cũng tốt, thì mình để ý đọc theo kiểu mới đi, theo kiểu bà Achannet hoặc chánh sớ đề nghị thì mình sẽ hiểu tứ diệu đế chỉ bàn đến vấn đề KHỔ. Ở đây ngài Xá Lợi Phất giảng vị tỳ kheo hiểu được 4 khía cạnh của KHỔ thì vị tỳ kheo đã có chánh tri kiến: Khổ đế: Ở đây ngài Xá Lợi Phật trình bày trên nhiều đề tài giáo lý khác nhau nhưng xét trên Vi diệu phấp có những đề tài nó trùng lặp nhau, ví dụ như tứ diệu đế tất nhiên có khổ đế rồi, ngài đề cập đến cái khía cạnh đầu tiên của khổ chính là bản chất của khổ, thì ngài phân tích cái khổ cho tới nơi tới chốn bao gồm sanh, già, đau chết, sầu, bi, khổ, ưu não, một lát nữa thì trong bài kinh cũng sanh, già đau, chết nằm ở dưới bài kinh này, cho nên chúng tôi quyết định làm gọn lại cho các Phật tử khỏi bị rối vì Ngài giảng cho đại chúng tỳ kheo nghe bằng thời giảng bằng miệng chứ không phải bằng sách, cho nên ngài tìm cách ôn tới ôn lui, còn hôm nay chúng ta có thể thưởng thức, gặm nhấm, thấm thía bài kinh này bằng trang giấy, mặt chữ này,nên chúng ta thấy rằng Đức Phật, chư thánh tăng nhắc đi nhăc lại mà chúng ta không để ý một chuyện là đời xưa các vị chỉ giảng bằng miệng cho người khác nghe bằng tai, chứ không có chuyện viết sách cho đọc bằng mắt hoặc thuyết giảng bằng băng cassette. Đã nói đến tứ diệu đế sau khi bàn đến sanh, già, bệnh chết chúng tôi nói phớt phớt mà thôi, trong 12 duyên khởi ngài viết theo cái cách nghịch đảo, hôm qua có nói đến 3 điểm đặc biệt của bài kinh này: 1. Ngài nói 3 lậu hoăc thay vì 4 2. Cách thức nghich đảo 3. Cội nguồn của sanh tử luân hồi nói một cách nôm na, chú ý chữ nôm na, thông thường phổ cập đại chúng thì vô minh là cội nguồn của đau khổ nhưng vô minh có từ các lậu hoặc nhưng các lậu hoăc có cội nguồn từ vô minh. Nói đặc biệt vì ta khó bắt gặp ở các bài kinh khác. Baokhanhnice STOP @1:22 [24/04/2024 - 11:25 - baokhanhnice] và khi đó chắc chắn chúng ta sẽ gặt được nhiều kết quả trên con đường tu học hơn,chúng tôi cũng hy vọng bài giảng tối nay, tuy nó chỉ là phần nhỏ của kinh " Chánh tri kiến" nhưng cũng trả lời được Phật tử một số câu hỏi trong cuộc sống tu hành của mình,chúng tôi xin chia sẻ Công đức này dù hay dù dở đến toàn bộ chúng sanh trong 3 giới 4 loài không phân biệt, các vị long thần hộ pháp thọ lãnh phước báu này rồi hộ trì cho chúng ta luôn luôn được đắc trì sở nguyện tu hành thỏa mái, NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÔ NI PHẬT. Chúng tôi vừa mở trang web của thầy Bình An Sơn để nhìn thẳng vào chánh kinh mà giảng, nên chúng tôi phải minimize screen lại để thấy hết bài kinh. Tiếp theo ngài Xá Lợi Phất ngài giải thích rằng các tỳ kheo đủ trí huệ mà hiểu được 4 thứ thực phẩm đó, 4 thứ tập khí sanh tử đó thì được gọi là chánh tri kiến, chư Tăng mới hỏi Ngài có con đường nào khác mà dẫn đến chánh tri kiến hay không? Có một con đường nào khác được gọi là chánh tri kiến hay không? Thì Ngài trả lời là có, nếu quý vị có được quyển tóm lược Trung Bộ Kinh của Sư cô Trí Hải thì tốt, còn không thì các vị vừa phải nghe vừa phải ghi vào cuốn sổ tay để tóm tắt nội dung,thực tình thì chúng tôi cũng không có được cuốn đó và cũng chưa tìm ra trong web của thầy Bình An Sơn, chúng tôi chỉ trình bày theo trong sớ thôi. Ngài Xá Lợi Phất nói có một vấn đề mà nếu các vị tỳ kheo, thánh đệ tử hiểu được thì cũng được gọi là chánh tri kiến, cũng là con đường dẫn đến chánh tri kiến, thì con đường đó là hiểu được 1 chữ thôi, đó là "KHỔ". Thì ở đây chúng tôi cũng xin lưu ý các vị Phật tử có một điều đó là có nhiều người họ kể Tứ diệu đế là 4: khổ, tập, diệt, đạo, nói như vậy là đúng chứ không có sai, chúng tôi xin xác định lại cho các vị rõ, tuy nhiên nếu mình nói tứ diệu đế chỉ bàn đến 1 vấn đề KHỔ cũng đúng chứ không có sai. Lý do mà tại sao chúng ta chỉ có nói đến 1 chữ KHỔ, có lẽ chúng ta theo dõi cũng sẽ biết theo cách phân tích ở đây của ngài Xá Lợi Phất ở đây thì rõ ràng là tứ diệu đế chỉ bàn đến 1 vấn đề đó là KHỔ, vị tỳ kheo hiểu được KHỔ là gì, đó là hiểu được cội nguồn, cứu cánh chấm dứt đau khổ và hiểu rõ con đường dẫn đến cứu cánh thoát khổ đó thì được gọi là chánh tri kiến. Và nếu KHỔ nó bao gồm 4 thứ như thế tức là Ngài Xá Lợi Phất đang bàn về tứ diệu đế, cho nên nếu chúng ta chỉ đọc phơt phớt qua rồi cộng với kiến thức kinh nghiệm giáo lý của mình thì ở đây mình không phát hiện ra cái gì cả, chẳng hạn ở đây chúng tôi hơi lạc đề một chút cũng như cho đến hôm nay theo các nhà học giả thì người ta nói rằng ngay câu đầu tiên trong ĐaỌ Đức kinh tương truyền do Lão Tử viết có câu "Đạo khả đạo, phi thường đạo, khanh khả danh, phi thường danh" thì nguwoif ta nói rằng mình có thể chấm phết thỏa mái (tức là đặt dấu ., chỗ nào trong câu cũng đươc) thì các vị sẽ có cái hiểu khác nhau về câu nói rất nổi tiếng này.Nên kinh điển nhiều khi có nhiều cách đọc cách xem nhưng nhớ lấy kinh làm gốc, quý vị dò thẳng vào chánh kinh xem rất thú vị.Khi mình quen nói đến khổ,tập, diệt, đạo là 4, tứ diệu đế nói đến 4 vấn đề đúng chứ không phải sai nhưng xem kỹ chánh kinh mới thấy, Ngài Xá Lợi Phất chỉ nói đến KHỔ, Chánh tri kiến ở đây là hiểu rõ cái khổ, khởi hay là con đường dẫn đến khổ, hiểu rõ cứu cánh nào để chấm dứt cái khổ và hiểu rõ con đường nào dẫn đến cứu cánh đó. Tứ diệu đế chỉ xoay quanh 1 vấn đề KHỔ, đọc trong chánh sớ quý vị sẽ thấy rõ điều này và đặc biệt có vị nào đã từng xem bài giảng của bà thiền sư Achannet mà được viết bằng sách, thì bà không có viết sách do Chư tăng, Phật tử nghe và ghi âm lại, tuy nhiên người ta có sửa đổi cho nó thành 1 cuốn sách nghiêm chỉnh, thì dĩ nhiên là có rồi, nhưng thật sự mà nói bà có để lại rất nhiều sách kiểu như vậy tức là phần chú giảng. Trong các bài giảng bà nhắc đi nhắc lại vấn đề nói về tứ diệu đế là 4 hay 1 đều đúng và bà còn nói thêm toàn bộ Tam tạng của Đức Phật chỉ nói chữ KHỔ cũng không trật. Dầu là giới, định, tuệ, chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng rồi 37 Pháp trợ Bồ đề, đề mục thiền chỉ, tứ niệm xứ....cũng chỉ bàn đến 1 chữ KHỔ thôi. Chính vì thế đêm nay chúng tôi đề nghị quý vị mở đươc trang Web của ông Bình An Sơn thì tốt, ấn bản của Vạn Hạnh cũng tốt, thì mình để ý đọc theo kiểu mới đi, theo kiểu bà Achannet hoặc chánh sớ đề nghị thì mình sẽ hiểu tứ diệu đế chỉ bàn đến vấn đề KHỔ. Ở đây ngài Xá Lợi Phất giảng vị tỳ kheo hiểu được 4 khía cạnh của KHỔ thì vị tỳ kheo đã có chánh tri kiến: Khổ đế: Ở đây ngài Xá Lợi Phật trình bày trên nhiều đề tài giáo lý khác nhau nhưng xét trên Vi diệu phấp có những đề tài nó trùng lặp nhau, ví dụ như tứ diệu đế tất nhiên có khổ đế rồi, ngài đề cập đến cái khía cạnh đầu tiên của khổ chính là bản chất của khổ, thì ngài phân tích cái khổ cho tới nơi tới chốn bao gồm sanh, già, đau chết, sầu, bi, khổ, ưu não, một lát nữa thì trong bài kinh cũng sanh, già đau, chết nằm ở dưới bài kinh này, cho nên chúng tôi quyết định làm gọn lại cho các Phật tử khỏi bị rối vì Ngài giảng cho đại chúng tỳ kheo nghe bằng thời giảng bằng miệng chứ không phải bằng sách, cho nên ngài tìm cách ôn tới ôn lui, còn hôm nay chúng ta có thể thưởng thức, gặm nhấm, thấm thía bài kinh này bằng trang giấy, mặt chữ này,nên chúng ta thấy rằng Đức Phật, chư thánh tăng nhắc đi nhăc lại mà chúng ta không để ý một chuyện là đời xưa các vị chỉ giảng bằng miệng cho người khác nghe bằng tai, chứ không có chuyện viết sách cho đọc bằng mắt hoặc thuyết giảng bằng băng cassette. Đã nói đến tứ diệu đế sau khi bàn đến sanh, già, bệnh chết chúng tôi nói phớt phớt mà thôi, trong 12 duyên khởi ngài viết theo cái cách nghịch đảo, hôm qua có nói đến 3 điểm đặc biệt của bài kinh này: 1. Ngài nói 3 lậu hoăc thay vì 4 2. Cách thức nghich đảo 3. Cội nguồn của sanh tử luân hồi nói một cách nôm na, chú ý chữ nôm na, thông thường phổ cập đại chúng thì vô minh là cội nguồn của đau khổ nhưng vô minh có từ các lậu hoặc nhưng các lậu hoăc có cội nguồn từ vô minh. Nói đặc biệt vì ta khó bắt gặp ở các bài kinh khác. Baokhanhnice STOP @1:22 [24/04/2024 - 11:25 - baokhanhnice] và khi đó chắc chắn chúng ta sẽ gặt được nhiều kết quả trên con đường tu học hơn,chúng tôi cũng hy vọng bài giảng tối nay, tuy nó chỉ là phần nhỏ của kinh " Chánh tri kiến" nhưng cũng trả lời được Phật tử một số câu hỏi trong cuộc sống tu hành của mình,chúng tôi xin chia sẻ Công đức này dù hay dù dở đến toàn bộ chúng sanh trong 3 giới 4 loài không phân biệt, các vị long thần hộ pháp thọ lãnh phước báu này rồi hộ trì cho chúng ta luôn luôn được đắc trì sở nguyện tu hành thỏa mái, NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÔ NI PHẬT. Chúng tôi vừa mở trang web của thầy Bình An Sơn để nhìn thẳng vào chánh kinh mà giảng, nên chúng tôi phải minimize screen lại để thấy hết bài kinh. Tiếp theo ngài Xá Lợi Phất ngài giải thích rằng các tỳ kheo đủ trí huệ mà hiểu được 4 thứ thực phẩm đó, 4 thứ tập khí sanh tử đó thì được gọi là chánh tri kiến, chư Tăng mới hỏi Ngài có con đường nào khác mà dẫn đến chánh tri kiến hay không? Có một con đường nào khác được gọi là chánh tri kiến hay không? Thì Ngài trả lời là có, nếu quý vị có được quyển tóm lược Trung Bộ Kinh của Sư cô Trí Hải thì tốt, còn không thì các vị vừa phải nghe vừa phải ghi vào cuốn sổ tay để tóm tắt nội dung,thực tình thì chúng tôi cũng không có được cuốn đó và cũng chưa tìm ra trong web của thầy Bình An Sơn, chúng tôi chỉ trình bày theo trong sớ thôi. Ngài Xá Lợi Phất nói có một vấn đề mà nếu các vị tỳ kheo, thánh đệ tử hiểu được thì cũng được gọi là chánh tri kiến, cũng là con đường dẫn đến chánh tri kiến, thì con đường đó là hiểu được 1 chữ thôi, đó là "KHỔ". Thì ở đây chúng tôi cũng xin lưu ý các vị Phật tử có một điều đó là có nhiều người họ kể Tứ diệu đế là 4: khổ, tập, diệt, đạo, nói như vậy là đúng chứ không có sai, chúng tôi xin xác định lại cho các vị rõ, tuy nhiên nếu mình nói tứ diệu đế chỉ bàn đến 1 vấn đề KHỔ cũng đúng chứ không có sai. Lý do mà tại sao chúng ta chỉ có nói đến 1 chữ KHỔ, có lẽ chúng ta theo dõi cũng sẽ biết theo cách phân tích ở đây của ngài Xá Lợi Phất ở đây thì rõ ràng là tứ diệu đế chỉ bàn đến 1 vấn đề đó là KHỔ, vị tỳ kheo hiểu được KHỔ là gì, đó là hiểu được cội nguồn, cứu cánh chấm dứt đau khổ và hiểu rõ con đường dẫn đến cứu cánh thoát khổ đó thì được gọi là chánh tri kiến. Và nếu KHỔ nó bao gồm 4 thứ như thế tức là Ngài Xá Lợi Phất đang bàn về tứ diệu đế, cho nên nếu chúng ta chỉ đọc phơt phớt qua rồi cộng với kiến thức kinh nghiệm giáo lý của mình thì ở đây mình không phát hiện ra cái gì cả, chẳng hạn ở đây chúng tôi hơi lạc đề một chút cũng như cho đến hôm nay theo các nhà học giả thì người ta nói rằng ngay câu đầu tiên trong ĐaỌ Đức kinh tương truyền do Lão Tử viết có câu "Đạo khả đạo, phi thường đạo, khanh khả danh, phi thường danh" thì nguwoif ta nói rằng mình có thể chấm phết thỏa mái (tức là đặt dấu ., chỗ nào trong câu cũng đươc) thì các vị sẽ có cái hiểu khác nhau về câu nói rất nổi tiếng này.Nên kinh điển nhiều khi có nhiều cách đọc cách xem nhưng nhớ lấy kinh làm gốc, quý vị dò thẳng vào chánh kinh xem rất thú vị.Khi mình quen nói đến khổ,tập, diệt, đạo là 4, tứ diệu đế nói đến 4 vấn đề đúng chứ không phải sai nhưng xem kỹ chánh kinh mới thấy, Ngài Xá Lợi Phất chỉ nói đến KHỔ, Chánh tri kiến ở đây là hiểu rõ cái khổ, khởi hay là con đường dẫn đến khổ, hiểu rõ cứu cánh nào để chấm dứt cái khổ và hiểu rõ con đường nào dẫn đến cứu cánh đó. Tứ diệu đế chỉ xoay quanh 1 vấn đề KHỔ, đọc trong chánh sớ quý vị sẽ thấy rõ điều này và đặc biệt có vị nào đã từng xem bài giảng của bà thiền sư Achannet mà được viết bằng sách, thì bà không có viết sách do Chư tăng, Phật tử nghe và ghi âm lại, tuy nhiên người ta có sửa đổi cho nó thành 1 cuốn sách nghiêm chỉnh, thì dĩ nhiên là có rồi, nhưng thật sự mà nói bà có để lại rất nhiều sách kiểu như vậy tức là phần chú giảng. Trong các bài giảng bà nhắc đi nhắc lại vấn đề nói về tứ diệu đế là 4 hay 1 đều đúng và bà còn nói thêm toàn bộ Tam tạng của Đức Phật chỉ nói chữ KHỔ cũng không trật. Dầu là giới, định, tuệ, chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng rồi 37 Pháp trợ Bồ đề, đề mục thiền chỉ, tứ niệm xứ....cũng chỉ bàn đến 1 chữ KHỔ thôi. Chính vì thế đêm nay chúng tôi đề nghị quý vị mở đươc trang Web của ông Bình An Sơn thì tốt, ấn bản của Vạn Hạnh cũng tốt, thì mình để ý đọc theo kiểu mới đi, theo kiểu bà Achannet hoặc chánh sớ đề nghị thì mình sẽ hiểu tứ diệu đế chỉ bàn đến vấn đề KHỔ. Ở đây ngài Xá Lợi Phất giảng vị tỳ kheo hiểu được 4 khía cạnh của KHỔ thì vị tỳ kheo đã có chánh tri kiến: Khổ đế: Ở đây ngài Xá Lợi Phật trình bày trên nhiều đề tài giáo lý khác nhau nhưng xét trên Vi diệu phấp có những đề tài nó trùng lặp nhau, ví dụ như tứ diệu đế tất nhiên có khổ đế rồi, ngài đề cập đến cái khía cạnh đầu tiên của khổ chính là bản chất của khổ, thì ngài phân tích cái khổ cho tới nơi tới chốn bao gồm sanh, già, đau chết, sầu, bi, khổ, ưu não, một lát nữa thì trong bài kinh cũng sanh, già đau, chết nằm ở dưới bài kinh này, cho nên chúng tôi quyết định làm gọn lại cho các Phật tử khỏi bị rối vì Ngài giảng cho đại chúng tỳ kheo nghe bằng thời giảng bằng miệng chứ không phải bằng sách, cho nên ngài tìm cách ôn tới ôn lui, còn hôm nay chúng ta có thể thưởng thức, gặm nhấm, thấm thía bài kinh này bằng trang giấy, mặt chữ này,nên chúng ta thấy rằng Đức Phật, chư thánh tăng nhắc đi nhăc lại mà chúng ta không để ý một chuyện là đời xưa các vị chỉ giảng bằng miệng cho người khác nghe bằng tai, chứ không có chuyện viết sách cho đọc bằng mắt hoặc thuyết giảng bằng băng cassette. Đã nói đến tứ diệu đế sau khi bàn đến sanh, già, bệnh chết chúng tôi nói phớt phớt mà thôi, trong 12 duyên khởi ngài viết theo cái cách nghịch đảo, hôm qua có nói đến 3 điểm đặc biệt của bài kinh này: 1. Ngài nói 3 lậu hoăc thay vì 4 2. Cách thức nghich đảo 3. Cội nguồn của sanh tử luân hồi nói một cách nôm na, chú ý chữ nôm na, thông thường phổ cập đại chúng thì vô minh là cội nguồn của đau khổ nhưng vô minh có từ các lậu hoặc nhưng các lậu hoăc có cội nguồn từ vô minh. Nói đặc biệt vì ta khó bắt gặp ở các bài kinh khác. Baokhanhnice STOP @1:22 [25/04/2024 - 11:38 - baokhanhnice] Dạ lần trươc con dừng tại 1:22:00 Tiếp theo đây tối nên ta sẽ bàn đến tứ đế hay 4 khía cạnh của khổ - Khổ đế là tất cả những hình thức hiện hữu tồn tại của các pháp hữu vi trong đời sống chúng sinh thì đều được gọi là khổ cả, vì sao mà nói rộng đến mức như vậy vì rõ ràng Đức Phật và chư Thánh tăng đã dậy rồi, sanh là khổ riêng chữ sanh chúng ta thấy là đã gói gọn tất cả các Pháp hữu vi trong đó rồi, phàm cái gì sanh thì nó phải diệt Đức phật nhăc đi nhắc lại diều này khi thuyết Pháp, đó là vô thường mà cái gì vô thường thì cái đó là khổ, hôm nay ta bàn chữ khổ theo bài kinh này nói riêng và theo giáo lý A tỳ đàm nói chung. Phần lớn chúng ta hiểu lầm chữ khổ, lát nữa chúng ta sẽ bàn đến, có sanh có diệt mà có diệt là vô thường mà vô thường thì lại vô ngã, nếu nói như vậy cái gì nó trót hiện hữu, chót tồn tại, trót có mặt, trót xuất hiện trên cái thế giới này thì nó đều nằm gói gọn trong khổ đế, nói một cách vắn tắt như vậy. Còn nói chi tiết thì cái khổ nó gồm có 3 thứ (1) khổ-khổ là tất cả các cảm giác khó chịu của thân của tâm thì đều được gọi chung là khổ, những người không hoc khi nói đến biển khổ hay đau khổ nỗi khổ, sự thống khổ thì chúng ta chỉ nói về 1/3 cái khổ trong tinh thần kinh điển Pali mà thô, họ hiểu khổ là mất mất cái mình thương mình thích, là gánh chịu những cái mà mình không ưa không muốn dầu nó thuộc về tinh thần hay thể xác vd như mình bị đau đớn, bệnh hoạn, thương tích,ruồi muỗi trích đốt, bị trày xước.... đó là cái khổ vật chất còn khổ về tinh thần như bị giận hờn, tức tối, ghen tỵ, ưu não, sầu muộn thì cũng gọi là khổ, nhưng tất cae khổ thân hay tâm đều chỉ bằng 1/3 cái khổ trong Phật giáo (2) hoại khổ đó là sự biến mất của hạnh phúc và khổ khổ là sự có mặt của đau khổ. Trong vi pháp nói là sự biến mắt của vi hữu lạc, tức là cái lạc thọ đấy, vd giữa trưa nắng mà mình không có quạt máy, máy lạnh đó là khổ khổ, nhưng có người mang quạt máy đem cho mình cái máy lạnh mát mẻ, an lạc, sung sướng thảnh thơi, trong lúc đang mát thì cúp điện thì cái mát mẻ dễ chịu tự nhiên biến mất, thì chỉ cần cái biến mất của hạnh phúc nó cũng là cái khổ và cái khổ thứ (3) nó rất là vi tế đó chính là bản chất tương duyên lệ thuộc các điều kiện mà phát sinh, điều này chúng tôi có trình bày rất nhiều lần và có những vd và những người không học giáo lý sẽ không biết cái khổ này, chúng ta chỉ biết khi nào mất mát đau đớn mới là khổ, nhưng có học thì mới thấy mọi hiện hữu, mọi thứ tồn tại trên đời này bản chất của nó đều là khổ. Khoan nói đến nó là cái gì nước mắt hay nụ cười, khoan nói vì chỉ riêng bản thân nó có mặt trên đời này đều là khổ rồi, vì bản chất nó lệ thuộc vào các điều kiện nhân duyên mà có vd như chiều hôm nay quý vị vừa trúng số 10 triệu Đô la, dì nhiên là rất hạnh phúc nhưng cái hạnh phúc đó nó rất mong manh, tại sao thế vì ngay khi quý vị biết mình trúng số thì thình lình cái răng nó bị nhức, nó bị sâu mà mình không để ý nhưng mà sao sau khi nghe tin trúng số thình lình nó nhức quá đi, mình cắn mạnh nó bị shock thế là nó nhức, sưng nó hành mình, cái miệng nó sưng thù lù ra. Thực ra các vị biết mình nặng mấy chục kg mà nhổ cái răng đem cân xem được bao nhiêu gram, nó chỉ là cái gì đó rất nhỏ trong tấm thân mấy chục kg này, và cái thân mấy chục kg đó nó không là gì so vơi cái răng đang bị đau, kể cả 10 triệu đô la kia nó cũng không có ý nghĩa gì hết. Tức là trúng số mà đau răng mà dẫn đến cái đầu của mình nó bưng bưng không chịu nổi, thì trong trường hợp đó quý vị thấy niềm vui nó có chọn vẹn hay không? kể cả ta biết tin mấy đứa con sắp về, kể cả có đứa đỗ tiến sỹ, luật sư ... và vô số quà cáp của bạn bè, thân quyến ở xa gửi về chúng tôi cũng đem cho quý vị niềm vui đó nhưng tất că không có nghĩa lý gì khi cái răng nó đau, đơn giản như vậy thôi. Ở đây chúng tôi không có nói là có cảnh sát, xã hội đen đến gõ cửa chúng tôi chỉ nói đến một việc đơn giản là cái răng có ván đề thì toàn bộ 10M đô la kia, toàn bộ thành công danh lợi của con cái quý vị, ngay bây giờ không tài nào quý vị có thể thưởng thức niềm vui đó được, nó nhức quá nhức mà sao chịu nổi, cho nên mọi thứ trên đời nó đều tương duyên với nhau, cái gì nó cũng phải lệ thuộc vào nhân duyên mới tồn tại được. Vd đêm nay mình được ngồi nghe cái buổi giảng Pháp này nó có rất nhiều cái hỗ trợ: cái ghế ở tình trậng tốt chứ không đang ngồi nó gãy thì sao? rồi trong nhà quý vụi phải đảm bảo vợ, chồng, con, cháu mình ...họ không có phiền khi mình mở micrco nghe, chứ phiền nó sẽ tới nói hoài thôi khuya rồi con ngủ đi thì làm sao mà nghe, cho nên quý vị ngồi yên đó mà nghe nó có vô số duyên, còn chưa kể khu vực quý vị ở nó có an ninh không? chứ không say rượu, khùng diên, kẻ quậy phá, chọi đất đá vô nhà mình thì làm sao nghe? Cho nên phải có mọi thứ ok gia đình, làng xóm, sức khỏe ok thì mình mới ngồi nghe ok, đấy là chỉ có ngồi nghe không có làm gì hết mà đã nhờ cậy rất nhiều nhân duyên, cho nên trong Đạo phất nói đến 3 thứ khổ: khổ-khổ, hoại khổ và hành khổ thì cái hiểu như vậy mới là sau sắc. Quý vị lưu ý thường nói đến khổ thì khổ nó là cái gì đó mó liên hệ đến cảm thọ, đó là cái hiểu lầm đáng tiếc, nhưng khi chú ý đến chữ nghĩa và họ Phật Pháp thì sẽ không có cái hiểu lầm đó. Có người hỏi trong kinh nói cái gì vô thường thì cái đó khổ, cái gì khổ cái đó vô ngã, vậy trong cơ thế chúng sanh có vô thường khổ đã đành rồi, nhưng cây cỏ đất đá nó cũng vô thường vô ngã nhưng nó không có khổ vì nó đâu có cảm thọ. Các vị nhớ chữ dukkha ở tiếng Pali và bên tiếng anh là suffering hay pain, cả hay chữ này không có lột tả hết được ý nghĩa của dukkha, vì chữ "du" ở đây nó có nhiều nghĩa lắm, nó là xấu, sai lầm, khó khăn chữ này nó gióng như predix ở tiếng anh như là mis, un ..."du" nhiều nghĩa lắm mà toàn là negative thôi, "kkha" ở đây là sự chịu đựng nhưng cũng là sự duy trì, sự kéo dài, sự tồn tại, kham nhẫn. Trong tiếng pali chữ nhịn bắt nguồn từ chữ kham, khammati là nhịn, tiếng Hán chữ kham nhưng là kham nhẫn, chữ 'kha" trong dukkha cũng từ chữ kham mà ra. Nói như vậy để thấy là dukkha nó không chỉ là khổ liên hệ đến cảm thọ mà nó mang nghĩa là bản thân nó khi mắc phải cái dukkha thì khó mà tiếp tục bình thường mà nó phải biến dạng đi, cho nên trong Chánh pháp có giải thích chữ dukkha là (... chữ Pali) khó duy trì, khó tồn tại hoặc là sự tồn tại trong tình trạng không tốt đẹp, sự kéo dài trong 1 tình trạng bức bách không tốt, không thỏa mái an lạc, thuận tiện. vd như đối với nhưng vật vô tri cái bàn ghế cái khổ trong đó nó không là cảm giác khó chịu mà nó là tình trạng hiện hữu không có tốt vd như hồi xưa cái khúc gỗ đó tốt nhưng sau nhiều năm, nhiều tháng nó bị mục, mối mọt hoặc thấm mưa, nắng dọi lâu ngày cái nhựa nên nó bị hỏng, thì mình không dich là cái khổ của cái bàn mà là cái tính trạng xấu của cái bàn. Thì phân tích như vậy ta mới thấy được cả 3 cái khổ, thường ta hiểu làm rất đáng tiếc nói đến khổ là gắn cả cái cảm thọ vào trong đó, vd hoại khổ còn dính chút cảm thọ, chứ đến hành khổ đâu có gì dính đến felling, cảm thọ nữa. Ngay cả một niềm vui của chúng ta, nếu mà nói theo hành khổ thì bản thân nó cùng là 1 cái khổ bởi vì niềm vui đó nó cũng là phù du, chóng vánh, còn đó mất đó và bản thân niềm vui đó là khổ là vì nó lệ thuộc vào rất nhiều điều kiện ở thế gian này thì nó mới có ví dụ ngồi ăn 1 cây kem nó cũng đủ thứ hết từ bàn ghế, điều kiện chung quanh, không có chống lại chúng ta thì ta mơi ngồi yên ăn được, chứ mà đánh lộn xô đẩy bàn ghế hoăc mình bị đau...bất cứ lý do nào cũng kiến mình ăn không nổi 1 cây kem. Như vậy khi mình ăn trọn vẹn 1 cây kem thì phải hiểu có rất nhiều nhân tác động kiến mình ăn trọn hoăc uống hết được ly coffee. Cho nên từ chỗ đó ta mới thấy hành giả tứ niệm xứ là người có một đời sống trọn vẹn hơn bất cứ ai hết vì cái gọi là đời sống của chúng ta nó chỉ là từng cái chớp nhoáng thôi, và trong từng cái chơp nhoáng đó chúng ta không bao giờ có chánh niệm, tỉnh thức thế là nó trôi qua. lúc nào chúng ta cũng áp đặt lên cuộc đời này cái khái niệm thời gian, trật lất, vd như chúng ta gọi tên năm tháng, mùa hạ năm sau mùa hè năm tới mùa đông năm ngoái nhưng đói vơi hành giả tứ niệm xứ thì không có mùa đông mà nó chỉ có từng hơi thở, từng bước đi, từng giây phút biết biển đổi của nội tâm lúc vui lúc buồn thôi, cho nên nó như nào vị đó sống trọn vẹn như vậy. Bên tây phương họ có 1 câu nói rất là hay " Sống nhiều chưa hẳn là sống lâu mà người sống lâu chưa hẳn là sống nhiều" sống lâu có thể mình sống 90, 100 tuổi nhưng chưa chắc đã sống nhiều, sống nhiều là mình cảm nhận được đời sống một cách trọn vẹn. Một người sống thất niệm, sống không biết mình thì người đó cho họ sống đến 100 tuổi thì họ chỉ là người sống lâu chứ họ không sống nhiều. Còn người sống nhiều chưa hẳn đã sống lâu, vì nhiều khi chỉ 20,30 nhưng họ hiểu chánh pháp, họ sống trong tinh thần thiền quán thì cái việc mạ họ sống được 2, 3 ngày họ cũng sống rất trọn vẹn. Nói cách khác những ông cụ bà lão nhiều khi thấy trẻ ăn mía, trái ô môi cũng thèm nhưng cái răng họ không còn nữa lúc đó họ chỉ ăn cái gì mà nướu lợi, bao tử của họ nó cho phép mà thôi, chứ còn cái mà hồi trẻ họ ăn thì thua rồi. Thức ăn của cuộc đời vẫn còn đó, đâu có mất đâu, có phải vì mình rụng răng thì mấy thứ đó nó chết hết đâu, mía vẫn tồn tại chỉ có răng là mất, người thất niệm cũng như vậy đó là người mà hàm răng nội tâm không còn nữa cho nên họ không có cảm nhận được đời sống phù du mong manh này, họ không thấy được nó tốt, xấu, đớn đau, nó sanh diệt ntn họ không có thấy, cho nên trong kinh Pháp cú Đức thế tôn có dậy dầu sống cả trăm năm không thấy pháp sanh diệt không bằng sống 1 ngày mà thấy là nhằm nói ý đó. Tức là anh sống một ngày mà thấy trọn vẹn còn nói theo ở ngoài đời thì mình sống 1 ngày mà mình có lý tưởng sống, cái sự có mặt của mình nó có lợi ích cho dân tộc, quốc gia, quê hương và cái chết cùng là sự đóng góp thì vd người đó có sống 20, 30 như ông Phạm Hồng Thái mới có 20, 30 nhưng ổng xứng đáng. Cuộc đời ngắn ngủi của ông trong lịch sử Việt Nam rất là đáng kể vì cái sống và cái chết đều là hữu sư. Đó là nói ngoài đời, nói trong đạo người mà có chánh niệm thì bản thân họ cũng sống trọn vẹn cho họ và họ không thể làm cái điều mà hại người khác, làm cho người khác chảy nước mắt chứ đừng nó nói làm cho người khác đổ máu. Đó là khổ đế và nó được hiểu như vậy đó mới là cách hiểu chánh tri kiến và hiểu như vậy mới dẫn đến trí tuệ thiền quán. Còn hiểu khổ phải liên quan đến cảm thọ nó đúng chứ không sai. nhưng nó nghèo lắm, cái vốn của mình càng ít thì cái lãi của mình càng nhỏ, cái hiểu của mình càng ít thì sự chứng đắc của mìcuarnos càng khó khăn. Baokhanhnice STOP @ 1:43:20 [26/04/2024 - 11:02 - baokhanhnice] cái hiểu biết của mình càng ít thì sự chứng đăc của mình càng khó khăn, trong khi Phật Pháp thì vô biên tha hồ tìm hiểu càng rộng càng sâu càng tốt, tự mình gói ghém trói buộc mình cũng giống như là trời đất thig bao la tự mình giam mình trong 4 bức tường chật hẹp thì cái đó là cái khổ, là cái thiệt thòi của mình thôi. Chứ còn chúng ta có ở chỗ trống hay ở trong ngục tù thì trời đất vẫn cứ bao la như vậy, Phật Pháp nói riêng và vạn Pháp nói chung cứ bao la mênh mông như vậy. Tự mình hiểu sai hoặc hiểu chệch vấn đề thì sự thu hoạch trong con đường tu học không dược nhiều, cho eenn ở đây ngài nói về chánh tri kiến của Đức Phật, ngài triển khai 1 chữ thôi, đó là chữ khổ. Vị thánh đệ tử hiểu được cái gì là khổ, hiểu được thế nào là con đường dẫn đến khổ tức là khổ tập, hiểu được cái gì cứu cánh chấm dứt khổ đó là khổ diệt tức là Niết bàn và cái thứ 4 đó là vị Thánh đệ tử hiểu được con đường nào dẫn đến cứu cánh chấm dứt đau khổ đó là đạo đế hay tập đạo. Vừa rồi chúng tôi trình bày cho các vị nghe về chữ KHỔ đế trong đạo Phật, tát cả mọi hiện hữu đều là khổ, Đức thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra một số hình ảnh già là khổ, đau là khổ, chết là khổ, nhưng thường Phật tử đọc phớt qua, cái sanh là khổ nó ít lắm, chỉ thấy già bệnh chết là khổ là rõ, còn chữ sanh mọi người bàn đến nó rất tội nghiệp, có người nói khi mang thai như vậy , sanh con như vậy bà mẹ rất đau khổ, đứa bé nằm trong bụng mẹ cũng rất đau khổ, khi lọt lòng mẹ cũng rất đau khổ vì nó phải có cái đau đớn khó chịu nào đó nó mới khóc, chứ không có gì làm nó khó chịu thì mắc gì nó khóc, thì họ phân tích vậy nó không có trật, nhưng hiểu vậy mới chỉ 1 phần thôi, nhưng tại sao nó khổ, chúng tôi lấy làm tâm đắc câu nói của ông Vontaire "Nếu phải khóc cho 1 kiếp người thì khóc cho 1 đứa bé mới chào đời còn hơn là khóc cho 1 ông già nằm xuống" ông ấy nói câu này rất là Phật giáo vì có thân thì phải già, mà già thì bệnh, và bệnh phải chết, đó là chuyện tất nhiên. Nhưng mà 1 đứa bé nó khóc, tại sao nó phải có mặt trên đời này, đó là cái chia buồn cho đứa bé chứ không phải chia buồn cho chuyện ra đi của ông già, và thậm chí còn 1 câu danh ngôn nữa chúng tôi cứ nhăc đi nhắc lại, các vị có nói là nhạt chúng tôi cũng nhắc, người ta nói: Hãy khóc cho đứa bé vì không biết đoạn đường sắp tới lành ít dữ nhiều hay là lành nhiều dữ ít mình chưa hay, nên hãy khoc là khóc lo âu cho nó, còn đối vơi 1 người chết thì họ đã hoàn tất, cái gì cũng xong xuôi rồi, rõ ràng rồi không có gì phải khóc, cái khóc là mình phải lo cho người phải dấn thân vào hành trình diệu vợi ngàn lý ngàn trùng không biết buồn vui ra sao. Cho nên chữ sanh mà hiểu một cách nôm na cái khổ của bà mẹ, cái khổ của bào thai là không có thật , nhưng mình hiểu thêm cái này mới rùng rợn: toàn bộ cái khổ trên đời này nó đi từ cái khổ sanh, không có khổ sanh thì không có già bệnh đau chết, sầu bi, khổ ưu não, thương phải xa, ghét phải gần muốn mà không được... không có sanh thì một chút khổ cũng không có, một tơ tóc cũng không có, nó khổ chỗ đó, khổ sanh có thể hiểu là cái tráp tòa, là cái còng, cái cổng của ngục tù, là khởi đầu của tất cả nước mắt, bi kịch, caid tráp bắt người chứ bản thân cái còng số 8 đâu có gì đâu mà khổ, nhưng có cái còng nó không dẫn đến cái gì hết, cái tráp tòa nó chỉ là tờ giấy nhưng nó quyết định cuộc đời người ta, rồi cánh cổng tù, cổng nó bằng sắt chứ không có gì ghê gớm trong đó nhưng nó giam lại đằng sau biết bao nhiêu mảnh đời, cho nên cái sanh ở dây nó là tất cả, nó là cội nguồn của 1 bi kịch nằm bên trong. Ngài Xá Lợi Phất trình bầy cho mình thấy cái khổ đế là khổ sanh,...tiếp đến khổ già mình quen cái tật yêu đời quá là yêu đời vì cái vô minh của mình nhiều quá rồi mình tham sống sợ chết cho nên mình thích dùng những mỹ từ, tiếng hay nghe êm tai vd đứa bé sanh ra rồi mình nuôi ít bữa mình tháy nó bụ bẫm mình khen nó kháu khỉnh, mau lớn rồi thời gian nữa mình nói nó trưởng thành tuổi trẻ, thời gian nữa mình kêu trung niên rồi già khằng thì kêu lão niên hay tuổi xế bóng, tới hồi chết rồi chưa chịu buông xài từ khuất núi, thì những chữ đó rất là hay nhưng thật ra theo nội dung của kinh điển chúng ta thấy rõ là cái già nó theo mình, rời bụng mẹ là có cái già rồi, trong sớ nói rằng cái cằn cỗi của thân pháp thì gọi là già, nó không có biển đổi trong tws bào, nó không có cái cũ mất đi thì cái mới làm sao xuất hiện, nếu khônkhoongsuwj giàng giao giữa cũ và mới trong các tế bào sinh học trong người mình thì làm sao một đứa bé nó có thể trưởng thành. Cái gì là gàu, các vị gội đầu thấy, đó là tế bào da nó chết đi để cái mới nó mọc lên, xuống hiện, rồi cái móng tay của mình cắt hoài ra hoài, bởi vì có cái cũ nó bị già đi và khi mình cắt nó ra thì nó ra cái mới, tương tự tóc, da mỗi lần kỳ mình kêu đất hay cát cáu ghét thưc ra là da khô của mình, như vậy từ răng cỏ, da xương, tế bào mắt thường không thấy được thì đó là sự vận hành dẫn đến sự cằn cỗi nó biến một đứa bé đỏ hỏn thành một đứa bé mặn mòi da thịt, sau đó thành thanh niên thiếu nữ ...trong kinh Phật chỉ gọi những trường hợp đó bằng chữ rất đơn giản là chữ vô thường, già cả, sanh diệt cho nó cụ thể chứ không xài mấy trưởng thành, trung niên... cái già theo mình từ bé và là cái mà thấy mắt nhìn được, còn có cái già mình không nhìn thấy được như mình có bộ lư đồng tết nào mình cũng mang ra chùi, mới chùi thì nó sáng xong dần daanf nó ngả màu rồi tối lại là do cái tan ở trong nó ra, mình càng chùi càng bóng, càng chùi càng mòn, nếu không chùi đàn dần ra cái rỉ xanh bao dần dần cái lư thì đến một lúc nào đó nó bị mục bị hư. đó cũng là vô thường mà mình không thấy được. Trong kinh có nói đến sự vô thường của 1 ngọn núi, cái biển thì mình thấy là cuộc đời của mình khoảng mấy chục đến 100 năm thì mình đâu có thấy ra sự vô thường của ngọn núi trừ khi mình đặt thuốc nổ để phá, chứ tự nhiên thì khó thấy vì kiếp người của mình nó ngắn ngủi. Trong kinh gọi những trường hơp đó là cái già không có cụ thể nhưng noc vẫn có, vì không có thì làm sao thấy cảnh biển xanh hóa ruộng dâu, ở Việt Nam có bao nhiêu con sông bên bồi bên lở thì theo thời gian thì phần đất mới nó bồi mà mình không để ý, có những trưởng lão nhớ có cái đình ở chỗ giữa dòng sông bây giờ bị mất tiêu rồi, hồi còn nhỏ họ đâu để ý đến lúc già mới nhớ ra nó đã lở mất mười mấy thước rồi. Nên cái khổ của chúng ta trong đời ta chỉ thấy trong bối cảnh nhỏ, lúc thì thấy cái khổ ở tầng vi mô (thấy trong thân thể mình gia đình mình vd năm ngoái thấy ăn uống bt, năm nay thấy ở chua đấy là cái khổ mà mình thấy, lúc vĩ mô (trăng sao hoa lá thiên thể trời đất... có sự biến đỏi vô thường). Cái mà ngài Xá Lợi Phất muốn mình thấy cả ở vi mô và vĩ mô, hoăc trong bản thân mình cũng thấy khổ vì mô (hồi xưa da mình đâu có nhăn giờ nó nhăn nhưng ko thấy sâu hơn là nó có những biến tướng về tim mạch huyết áp...mà cái đó thôi mình cũng chỉ thấy mức vi mô hoặc vĩ mô) Ngài Xá lợi Phất muốn mình thấy cả ở 2 khía cạnh Baokhanhnice STOP @1:57:18 [27/04/2024 - 11:12 - baokhanhnice] thấy được cái chân và cái duyên cả lớn và nhỏ, thất cả những cái đó gom lại được gọi là khổ đế, sanh già đau chết là khổ rồi cái chết theo thông thường mình cũng chỉ thấy bằng 1/3 cái chết trong kinh Phật thôi, trong Kinh phật có 3 cái cách nói về cái chết (1) cái chết trong từng sắc na khi nãy mình vui, giờ mình buồn thì cái niềm vui đó chết hẳn không còn dấu vết gì cả, rồi cái buồn cũng sẽ chết đi nhường cảm giác lại cho 1 cái khác đó là sắc na tử (2) cái chết theo cái ước lệ, chế định tử, theo cái thế thường mà mình thấy tay chân cứng lạnh tắc thở, không còn máy động nhúc nhích không còn máy động ....những cái đó thì được gọi là chết, không có sinh hoạt ăn uống được nữa (3) đoạn tận tử tức là sự viên tịnh niết bàn hoàn toàn của 1 vị thánh tự hóa, tức là khi vị này cái tâm (tử/từ ? con không nghẽ rõ được Sư nói), vị này sẽ không còn dấu vết nào của sự tồn tại, sự hiện hữu nứa, trong trường hợp này cũng gọi là chết. Những cái khổ còn lại vì không có thời gian nên tôi chỉ nói vắn tăt thôi, tức là sanh già đau chết là khổ đã đành rồi, muốn không được cũng là khổ, thương phải xa cũng là khổ dù đó là nhân hay vật con người hay món đồ, thích nhưng bị mất bị rồi xa đi cũng gọi là khổ, những con người đồ vật mình không ưa nó cứ đè mình tới không, đó là cái khổ gọi là oán biệt ly, oán tăng hội. Đức Phật và ngài Xá Lợi Phất gom lại - Sanh già bệnh chết sầu bi ....nó chỉ tóm gọi lại trong 1 cái gọi là 5 ngũ uẩn, ngày nào còn 5 ngũ uẩn là còn khổ, chỉ có sự viên tịch niết bàn, chất dứt sanh tử thì mới là sự chấm dứt sự tiếp nối của 5 uẩn. - Vị thánh đệ tử hiểu con đường đó là tham ái, tham ái kể rất kinh điển thì gồm 3 thứ: dục ái,hữu ái và phi hữu ái, 3 cái ái này tùy thuộc vào nhiều chỗ sẽ có cách giải thích khác nhau dục ái là đam mê trong dục trần; hữu ái thì có chỗ giải thích là cái đam mê trong cảnh giới tái sanh theo quan điểm thường kiến ; vô hữu ái đó là đam mê sự hiện hữu tồn tại theo quan điểm của đoạn kiến nhưng có chỗ giải thích là cái đắm đuối đam mê trong các tầng thiền sắc giới là hữu ái, còn vô hữu ái đam mê trong cảnh thiền vô sắc giới. Nói gọn lại 3 cái ái này có thể được xếp vào trong 6 ái, đam mê trong 6 cảnh, đó là sự đam mê trong sắc, cảnh thinh, cảnh khí, cảnh vị, cảnh xúc và cảnh pháp (tức là bất cứ cái gì thuộc đối tượng của tâm) nói ở ngoài đời là giác quan thứ 6, tất cả được gọi là lục ái, sự đam mê trong 6 trần. Chúng tôi xin trở lợi, bữa nay có lẽ trong buổi giảng này chúng tôi chỉ giảng về tứ diệu đế thôi vì có nhiều điều chúng tôi cần lưu ý quý vị. Trong đầu buổi giáng chúng tôi có lưu ý quý vị là chữ KHỔ không hẳn là phải luôn luôn khổ, phải gắn liền với cảm thọ, tập đế tức là cái ái dầu là dục ái, hữu ái hay vô hữu ái nói gọn lại là 6 ái, sự đam mê trong 6 trần và được gọi là tham ái, nó là con đường dẫn đến khổ tập, Chúng tôi có nhận thấy rằng khi học thì mình cứ nói cảnh đẹp, nhưng qua kinh nghiêm, thấm thía riêng tư dĩ nhiên là có cơ sở, thì chúng tôi thấy không có nên dùng chữ sắc đẹp chỉ dùng là cảnh sắc thôi mặc dù trong một số Kinh Đức Phật có nói cảnh nào hấp dẫn, để Ngài chỉ cho cái mình gọi là sắc đẹp nhưng mà Đức Phật chỉ nói cảnh sắc, cảnh thinh nào mà khả hỷ, khả ý chứ ngài không dùng chữ đep hay xấu vì đẹp xấu bản thân nó có những hạn chế rất rõ ràng, nên lưu ý, Đức thế tôn không nói đẹp hay xấu mà chỉ là khả ý khả hỷ vd có người không sầu riêng được nhưng có người họ mê không tả được , nên cái ngon hay dở nó hoàn toàn phụ thuộc về vấn đề cá nhân, nên chỗ này mình không gọi sắc đẹp, tiếng hay, vị thơm, xúc lạc Ngài chỉ nói cảnh khả ái, khả hỷ, khả ý vì cảnh đó thích hợp với người đó thôi chứ không thích hợp với tát cả mọi người. Như ông Vontaire có 1 định nghĩa mà tôi rất thích, đẹp là gì đó là con cóc đực trong mắt của con cóc cái, và châm ngôn tây phương cũng có nói 1 câu châm ngôn thế này" khi ta yêu 1 người chột mắt thì ta sẽ thấy mọi người khác trên thế giới này đều bị dư 1 con mắt" nên chuyện đẹp xấu là do mình. Chính sự đam mê trong 6 trần tạo ra lục ái và lục căn của đời quá khứ tạo ra cho đời hiện tại và 6 ái của đời hiện tại sẽ tạo ra 6 căn cho đời sau. Trong cuộc đời này từ cõi Phạm Thiên đến Phi tưởng phi phi tưởng cho đến xuống các tầng địa ngục thì nói gọn lại chỉ là 6 thứ thôi đó là 6 trần, cái gì nằm ngoài bản thân mình ra thì đều gọi là lục trần cả. Vd có thể là cái mình không thấy được thì có thể cái mình nghe được, nếm, ngửi, sờ hoăc suy nghĩ đến được và như vậy vạn pháp trong đời này chi là lục trần, lục thức hoặc lục căn mà thôi, cho nên mới nghe thoáng qua lục căn gặp gỡ lục trần (Không nghe được ...) nhưng không phải vì vậy mà vị này có thể chứng đắc được niết bàn, nói một cách nôm na vị này hiểu về Pháp chứ không hiểu về nghĩa, hiểu về pháp một cách cụ túc thì mới được gọi là bậc thánh nhân. Có thể học về 37 pháp trợ bồ đề, tam tướng, thiền chỉ, thiền quán ...kinh luận của Đức Phật, chính cái cửu phần của Đức thế tôn đều hiểu được học được, thấm thía được theo trí văn, tư thậm trí trí tu nhưng ngày nào chưa chứng được thánh trí thì hiểu biết của vị này cũng chỉ dừng lại ở mưc hiểu về pháp mà chưa hiểu được nghĩa có nghĩa là vị này phải có chứng đắc, thông chứng và thể nghiệm chứ còn chưa có 2 cái đó thâm kiến và trải nghiệm trí tu chưa đi đến nơi đến chốn thì cái chúng ta đạt được khá lắm là trí văn tư mà thôi. Baokhanhnice STOP@ 2:09:55 [07/05/2024 - 11:15 - baokhanhnice] Một lần nọ chính vua Ba Tư Nặc đến hỏi bà Khê ma, thưa ngài có thể giải thích trẫm nghe thế nào là niết bàn hay không? thì bà Thê ma là thánh ni đệ nhất trí tuệ bên hàng ni chúng, đệ tử của Đức Phật, bên tăng thì có ngài Xá Lợi Phất. Bà nghe vua hỏi vậy thì bà trả lời thế này" Nếu bây giờ đại vương có thể đếm được cái số cát trong sông Hằng thì tôi sẽ giải thích cho đại vương biết thế nào là niết bàn", dĩ nhiên số cát trong sông Hằng làm sao có thể đếm được, người không biết Phật Pháp thì cứ ngỡ bà Khê ma thoái thác, khước từ trả lời hoặc bà không đủ hiểu, không đủ trí tuệ để trả lời, nhưng nếu ta biết Phật pháp thì đó là câu trả lời hết sức sáng suốt, bà không cố ý giải thích một điều bà biết cho người không hiểu, sau đó nhà vua Pasennadi (Ba Tư Nặc) mới đi đến hỏi Đức Phật rằng con đã nghe đã hỏi Ni sư Khê ma và đã được trả lời như thế, bà có giải thích cho con nghe sơ lược về 12 duyên khởi con muốn đến hỏi Đức thế tôn một lần nữa về vấn đề này, thì Đức Phật nói này Đại vương, Khê ma là đứa con gái tinh thần của Như Lai, nếu mà Đại vương muốn hỏi Như Lai về niết bàn thì Như Lai cũng trả lời như thế mà thôi.Vua nghe như vậy thì rất hoan hỷ và nói "Lành thay lành thay Đức Thế Tôn, thật là vi diệu thay giữa đệ tử và Đạo sư có một sự tương đồng về văn về nghĩa như vậy,thế thì ngày hôm nay làm sao chúng tôi có thể hơn được, trả lời khác đi được với câu trả lời của bà Khê ma. Nên chúng tôi chỉ có thể giải thích diệt đế là gì, khổ đế là tất cả những tồn tại trên cuộc đời này, dù là vui buồn; còn tập chính là đam mê tất cả những gì tồn tại trong đời này gọi cho gọn đó là lục trần; còn diệt đế chính là sự văng mặt của khổ đế và tập đế; nếu đó là hữu duyên vô dư y niết bàn thì đó là sự vắng mặt hoàn toàn của Tập đế thì còn vô duyên vô dư y niết bàn thì đó là sự vắng mặt hoàn toàn của Tập đế và diệt đế, ở đây chúng ta nói một cách nôm na bình dân một người bị bệnh thì hỏi điều mà anh ta mong mỏi nhất là gì thì anh ta sẽ nói rằng " đó là cái không bệnh" mình là người không bênh mình nghe thấy câu đó thì sẽ hỏi cái trạng thái không bênh nó là cái gì mà anh phải đam mê, nhưng mà chỉ có người bệnh mới hiểu tại sao ta tha thiết cái đó, tại sao anh ta tha thiết cái không bệnh, cái không bệnh nó giúp anh ta vượt ra khỏi cái cảm giác mà anh ta đang chịu ngay bây giờ, thì chúng ta có thể hiểu niết bàn là cái trạng thái khi nào mà chúng ta còn mang cái thân sanh tử này, tâm phiền não này thì chúng ta bị giằng xé rất nhiều đau khổ từ thân đến tâm, đối với một người chứng ngộ niết bàn thì vị ấy phải hiểu rằng kể từ kiếp này mình không còn trở lui trạng thái này nữa, vị này chứng quả Alahan hiểu rằng hết khiếp sống này ta không còn trở lui, trở lại trạng thái tồn tại có mặt hiễn hữu của danh, của sắc, của thọ, của tưởng, của hành của thức, còn cái cảm giác đó ra sao thì chỉ các Bậc thánh mới biết, nhưng chúng tôi nhắc lại đừng bao giờ đánh đồng, đồng hóa niết bàn là hư vô, điều này cực kỳ sai lầm mà nó còn là tà kiến nữa. Niết bàn không phải là hư vô, không phải là nothing, không phải là niết bàn là có cái gì thì đó cũng là tà kiến, và niết bàn là trạng thái mà chỉ có bậc Thánh mới hiểu được, đó là sự vắng mặt của phiền não và sanh tử, hiểu như vậy là đủ rồi, mặc dù chưa trọn vẹn nhưng thế được rồi, chỉ nghĩ đến đó thôi đừng nghĩ thêm nữa, giống như mình đừng có thắc mắc là mình ăn cái chén vàng đũa bạc nó ra làm sao, đừng bận tâm tới cái đó mà ráng làm có tiền trở thành triệu phú đi rồi sẽ biết, chứ giờ làm ăn không lo làm ăn cư tối ngày lè phè, ầu ơ ví dầu đầu đướng xó chợ, tán gẫu hết ngày này qua ngày khác, tối cữ vắt chân chữ ngũ mơ mộng một ngày làm triệu phú để được ăn mâm vàng, chén ngọc đũa vàng rồi buồn buồn không biết đũa ngọc ăn nó có ngon hơn đũa tre không? rồi chén vàng nó có hơn chén sứ không ....cái đó nó không cần thiết, cái cần thiết là ráng làm cho có tiền để trở thành triệu phú thì tự nhiên lúc đó sẽ biết. Cái thời gian của mình nó ngắn ngủi mình không có thời gian mà tưởng tượng ra cái mâm vàng chén ngọc nó ra sao, chúng ta chỉ có thời gian để trở thành triệu phú chứ không có thời gian mà nghĩ về mâm vàng chén ngọc, thì đó là nói một cách nôm na về diệt đế. Chúng tôi xin lưu ý Niết bàn không phải là cảnh giới để tái sanh trong đó, đi đứng sinh hoạt trong đó, như là thiên đàng cảnh giới tây phương cực lạc, ai mà hiểu niết bàn là cảnh giới, là không gian để mình sống, tồn tại và sinh hoạt thì đó là sai, nhưng niết bàn là cái cảnh để thăm viếng thì đúng hơn, rồi nghĩ niết bàn là hư vô, zero cũng là tà kiến mà có cái gì đó cũng là tà kiến mà Niết bàn là một trạng thái yên tĩnh mà trạng thái này chỉ có bậc Thánh mới cảm nhận được thôi, chúng tôi vừa trình bàn khái lược và hy vọng rằng không sai không thiếu về chữ diệt đế mà quý vị có thể thấy trong các kinh điển Pali. Cái thứ 4 cũng là phần kết thúc của buổi giảng tối nay đó là diệt đế, như chúng tôi mỗi khi mà nhắc qua 12 duyên khởi thì có dừng lại ở ví dụ là chúng sanh trong cuộc đời này thì khuynh hướng hướng ác nhiều hơn khuynh hướng hướng thiện, chúng ta thích sống trong hạnh phúc hơn là đau khổ thì quý vị nhớ là chúng ta thích làm ác hơn làm thiện cho nên đời sống của mình thường khổ nhiều hơn vui, lúc nào cũng thích hạnh phúc hơn là đau khổ, hai cái này nó cộng lại khiến cho chúng sanh luôn sống trong đau khổ và themf khát (Chỗ này khó nghe quá), được Đức Phật ví dụ như một con bò. Stop @ 2:18:15 [08/05/2024 - 10:59 - baokhanhnice] Sự đau khổ và thèm khát được Đức Phật ví như như 1 con bò, thay vì làm 1 con người khi khát nước thì đi kiếm nước lạnh, nước mát, nước ngon mà uống, nhưng con bò ví dụ đi, nó khát quá thì gặp nước ở đâu cũng đưa cái mõm nó vào uống, gặp nồi nước sôi cũng đưa mõm mình vào uống, thì các vị biết rồi đang khát nước mà đưa nguyên cái mỏ vào nồi nước sôi thì làm sao mà giải khát được, chết chứ làm sao mà sống được và khi gặp cái lu nước muối khát quá nó cũng đưa mõm vào cái lu nước muối uống, thế là nó cũng không giải khát được. Chúng sinh trong đời này cũng vậy vì đau khổ quá, mà đau khổ đó từ đâu ra, không có thượng đế nào trừng phạt mình cả mà là do mình, do cái bản năng bất thiện nó nhiều hơn thiện cho nên sanh ra dứt khoát là gặp khổ rồi, khổ nhiều. Rồi trong cái đau khổ đó mình mới đi tìm cách giải quyết, mỗi người có cách giải quyết khác nhau, có người thì giải quyết đau khổ bằng cách là sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, rồi tham sân si, gây thù chuốc án, ghen tỵ, bỏn xẻn rồi toan tính, gian dối, ngã mạn, lừa đảo người này người kia để nghĩ rằng mình trốn khổ tìm vui, đó là cách trốn khổ tìm vui thấp nhất nó dẫn đến mình sẽ đầu thai vào các đường ác đạo, cách thứ 2 là hạng người khá hơn, bố thí trì giới với lòng mong mỏi sanh về các cõi như ý, thì con đường trốn khổ tìm vui này, có nhiều người sau cuộc sống bôn ba thấy cuộc sống phù du quá, cũng nương nhờ nơi chánh pháp cho lúc chui vào quan tài có cái bỏ túi mang theo, cái suy nghĩ đấy nó cũng tốt chứ không sai, nhưng có điều họ không có vượt khỏi cảnh giới dục lạc, cho nên làm phước miệng niệm giải thoát, nói đến chư Phật, nói đến tam tướng nhưng mà cái lòng chưa đủ sức để vượt qua cái sự cám dỗ ngọt ngào của các cõi dục thiên hoặc các cõi nhân giới, sau khi chết rồi những phước trì giới sẽ đưa mình trở lại cõi phạm thiên, các cõi dục thiên hoặc cảnh giới loài người, đó là con đường trốn khổ tìm vui cao hơn loại trước nhưng cũng chưa đến đâu, có con đường thứ ba là thấy rõ là có phước sanh về trời, trở lại làm người nó sướng thiệt nhưng mà nó còn hạ liệt, còn kẹt ở trong đường hưởng thụ, sa đọa dục lạc và thứ hai tuổi thọ của chư thiên dục giơi nhiều tối đa chỉ có 9 tỷ mấy năm thôi, thế thì cũng có đáng gì, thế là họ vào thiền định từ tầng sơ thiền, nhị, tam thiền dục giới, các tầng thiền vô sắc giới như là không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ... sống cũng 84 ngàn đại kiếp, sống như vậy mới là sống chứ có đâu mà 9 tỷ mấy năm thì làm ăn được gì, thì đây là cách trốn khổ tìm vui cao cấp nhất ở trong thế gian nhưng mà nó không phải là con đường xuất thế. Khi Đức Phật ra đời mới chỉ ra cho con đường mà lẽ ra trước khi ngài ra đời nó đã có rồi nhưng chúng ta không có đủ sức để thấy, đó là con đường bát chánh đạo, chính con đường này gói gọn tất cả các thiện Pháp ở hai con đường trước đó là (con đường nhân đạo và thiên đạo) nhưng Ngài nâng nó lên ở một tầm cao hơn vd Bát chánh đạo gom thành 3 thì cũng là Giới, Định Tuệ, nhưng Giới trong bát Chánh đạo nó không có đơn giản như Giới ở trong thập thiện nữa, giới trong thập thiện chỉ là: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rươu mà thôi, và giới trong thập thiện nó không đủ để gột rửa nội tâm một cách triệt để, trọn vẹn như là Giới trong bát Chánh đạo. Định trong con đường Thiên đạo sanh về Phạm thiên thì cái định đó nó cũng là định là các tầng thiền nhưng chưa rốt ráo vì lý tưởng, mục đích cứu cánh mà nó hướng tới chỉ là các cõi Phạm thiên, trong khi đó định trong bát Chánh đạo cũng là các tầng thiền này nhưng mà cứu cánh không phải là các cảnh giới tái sanh mà cái cứu cánh nó là nền tảng cho Tuệ quán, các vị nhớ kỹ chỗ này, cái giới, định trong bát Chánh đạo cũng y hệt như cái giới cái định trong Thiên đạo và Nhân đạo vậy, mà sở dĩ cái Giới, cái Định trong bát Chánh đạo được gọi là Phật đạo bởi vì cứu cánh khác, đó là không nhắm đến con đường nhân thiên nữa mà cái Giới cái Định nhắm đến Tuệ quán, mà Tuệ quán là nhắm đến cái cứu cánh niết bàn, chấm dứt sanh tử, đoạn tận luân hồi. Đây là con đường trốn khổ tìm vui cao cấp nhất và như chúng tôi đã trình bày cái chữ "trốn khổ, tìm vui' thì khổ và vui nó không còn gói gọn trong cái gì đó liên hệ đến cảm thọ nữa vd ở trong các cái cõi ở mức 1, nhân đạo nói đến khổ, vui là người ta còn bị bó buộc trong cảm giác vd sanh địa ngục là khổ, sanh cõi người làm vua sướng, sanh vào nhà giàu sướng, sanh vào nhà nghèo khổ hoặc sanh vào làm người khổ, sanh làm các tiên ông, tiên nam, tiên nữ là sướng, vd như vậy nhưng ở trong trình độ tu tập bát Chánh đạo thì một dạ nhất tâm hướng đến Niết bàn, đến giải thoát, nghĩ về cái khổ cái vui nó không còn giới hạn trong cảm thọ nữa, mà các vị đấy thấy rõ là lúc nào hoặc cái nào nó còn ẩn nấp trong cái đường sanh diệt thì cái đó là khổ, cái nào không còn sanh không còn diệt thì đó là an lạc, cái an lạc này nó không còn gói gọn trong cảm thọ nữa như có 1 vị tỳ kheo hỏi ngài Xá Lợi Phất " Thưa có phải chăng Niết bàn không còn cảm thọ?" thì Ngài trả lời đúng, Niết bàn này không còn cảm thọ bởi vì thọ là 1 trong 5 uẩn, đã còn uẩn là vẫn còn nằm trong vô thường, khổ, vô ngã, rồi vị tỳ kheo đó mơi hỏi tiếp : Thưa Tôn giả ... (tiếng Pali) Đức Phật có dậy ràng ngoài Niết bàn thì chẳng có cái gì là An lạc nữa thì Ngài Xá Lợi Phất mơi trả lời rằng: này hành giả chính vì Niết bàn không còn cảm thọ nữa cho nên Niết bàn được gọi là An lạc. Các vị nhớ kỹ chỗ này, đây là điểm khác biệt rất lớn trong lý tưởng trốn khổ tìm vui của chúng ta, khi chúng ta không biết chánh Pháp thì chúng ta giống như con bò nó khát nước (1) uống nước sôi (2) uống nước muối, trong khi đó trong lý tưởng tu tập giải thoát thì phải vượt qua cứu cánh Nhân đạo và Thiên đạo mà chỉ nhắm đến cứu cánh giải thoát mà thôi, tức là cũng tu giới, định nhưng lúc này nó không còn là nhắm tới cảnh giới tái sanh nữa, mà nhắm tới cứu cánh Tuệ quán, còn gọi là Trí tuệ trong tứ niệm xứ hoặc Trí tuệ trong danh sắc, Trí tuệ trong ngũ uẩn, Trí tuệ trong 18 giứi, Trí tuệ trong Tứ đế, thì cái trí tuệ này mới là cứu cánh của Giới và Định nhưng mà cái Tuệ này nó dẫn về đâu, khi mà nó được tu tập thành căn cứ địa, thành cỗ xe thì nó dẫn đến cứu cánh thoát khổ, chấm dứt phiền não không còn sanh tử luân hồi. đó mới gọi là Đạo đế của Đạo Phật, còn nếu mà còn hướng tâm tới cảnh giới nào đó thì (1) mình chưa có thật sự thấy được sự có mặt, sự hiện hữu, sự tái sanh nó là khổ, tại sao chúng sanh có khuynh hướng thích đị vào những cái đạo nào mà có cảnh thiên đàng, có cứu cánh nào đó nó cụ thể bởi vì họ chỉ nghe một phần nhỏ của cái khổ, đời là biển khổ giờ mình phải thoát khổ đi về cảnh giới an lạc, thế là trong cách hiểu nôm na đó họ dễ bị dắt dẫn vào cái khái niệm là có một cảnh giới an lạc, chứ thật ra trong tinh thần của Phật giáo kinh điển Nam Tông thì một người thấy rõ được từng ly từng tý cái sự đau khổ trong từng phút, từng giây của danh và sắc thì người đó sẽ không một mảy may nào mong mỏi, tìm cầu, hướng tâm, ước nguyện đến sự tiếp tục có mặt, tiếp tục hiện hữu, tiếp tục tồn tại trong một cảnh giới khác, giống như 1 đứa bé nó không thấy bênh là khổ, chỉ cần tới nựng cho nó ăn bánh là nó thấy vui rồi còn cơn đau lâu lâu nhăn chưt nhưng ba má lại nựng nựng hôn cái thì nó quên, nhưng đó là con nít người lớn mình không phải như vậy mà mình nhiếu khi cái bệnh nó chưa phát tác đến nơi đến chốn, chưa bị nó hành rõ ràng nhưng chỉ cần bác sỹ phán mình 1 câu là phổi bị nám hoặc là phổi có nước hoặc tôi nghi anh bị ung thư thì người lớn mình nghe thấy như vạy là mình đã biết phải làm gì rồi, con nít thì không, phải đau như thế nào đó đến mức mà không còn suy nghĩ được, đến mức mà không cười được thì nó mới khóc, mới la còn người lớn nghe thấy hơi kỳ kỳ là đã đi bsy, mà khi bsy .... (mất 20s không có tín hiêu) Stop @ 2:29:20 [09/05/2024 - 10:37 - baokhanhnice] Sư đang kể câu chuyện và nhân vật có hỏi "Tại sao ta đau khổ?" là bởi vì lục căn của ta không được tu tập, cho nên vừa nghe đến bóng sắc mỹ nhân là ta đã bị cuốn hút vào trong đó, đó chính là vấn đề của xúc, của thọ chỉ cần khi lục căn tiếp xúc với lục trần và mình không có phóng dật, thì mình không có cái khổ này hoăc nếu 6 căn tiếp xúc với lục trần mà các cảm thọ khởi lên mà mình có chánh niệm thì mình cũng không khổ thế này hoặc là khi các cảm thọ tham ưu, khổ ưu nó nổi lên hoặc lạc xả nổi lên mà ta sống tỉnh giác thì ta không có tham ái, thì ta cũng không khổ thế này mà khi có tham ái rồi, nếu ta có chánh niệm tỉnh giác từ đàu ta cũng không khổ thế này. Ngài chỉ nghĩ bao nhiêu đó thôi mà ngài chứng đắc được Phật quả độc giác ngay trong đề tài ngắn gọn đó là " Nếu kể từ lúc ta nghe tin đó ta chánh niệm tỉnh giác thì ta sẽ không khổ thế này, mà cái khổ của ta nói riêng và cái khổ của tất cả chúng sinh đời này nói chung đều khởi đi từ chỗ không có chánh niệm tỉnh giác' , chữ tỉnh giác ở đây được hiểu là trí tuệ, là tỉnh thức vì không có sự tỉnh thức sáng suốt trong mọi hoàn cảnh khi mà lục căn tiếp xúc với lục trần hoặc khi tiếp xúc rồi mà có một cảm thọ nào khởi lên mà nếu cái giai đoạn đó mình vẫn chưa có chánh niệm thì mình vẫn có thể gìn dựng lên một hệ thống duyên khởi cho bản thân mình. Chúng ta biết rồi cái người mà dựng lên hệ thống duyên khởi chính là người tạo lên dòng luân hồi, bởi vì dòng luân hồi là tên gọi khác của dòng duyên khởi, nó là một vòng tròn không có điểm đầu và điểm cuối, nó xoay quanh cái tham ưu của đời này và bắt nguồn từ sự thất niệm và từ đó tạo ra vô minh, tham ái để từ đó lại tạo ra hiện hữu mới trong tương lai, cứ tham ái đời này tạo ra lục căn đời sau nếu không có được chánh niệm và tiếp tục tạo ra lục căn đời khác, lục căn này tạo ra lục căn kia, tạo ra liên tục như vậy nó là một dòng luẩn quẩn không có thoát ra được, cho nên theo như chánh kinh mà hiểu thì dòng sanh tử luân hồi của mình nó giống như là một cái sên xe đạp, nó tròn vo vậy đó, bắt cứ một mắt xích nào mà chúng ta chặt ra, tháo ra thì coi như là cái dây sên đó nó không còn giữ lại được cái tác dụng cũ của nó nữa, tức là cuốn tròn cuốn tròn cái đùm để cho xe đạp được vận hành và xe đạp được tượng trưng cho dòng sanh tử của mình, nếu ngày nào cái dây sên duyên khởi nó không bị tháo mắt ra thì cỗ xe sanh tử nó vẫn vận hành và khi đó chúng ta tiếp tục sinh tử, còn nếu bất cứ mắt nào ở trong cái dây sên đó đươc tháo ra, chúng tôi xin nhấn mạnh BẤT CỨ mắt nào được tháo ra, được giải quyết thì chiếc xe đạp không vận hành được nữa, cũng giống như trong dòng luân hồi nếu chúng ta chánh niệm tỉnh giác ở trong giai đoạn thọ, ái, thủ thì từng cái giai đoạn đó cũng là cách mà chúng ta tháo ra một mắt xích trong hệ thống duyên khởi. Và như chúng tôi đã trình bày thì toàn bộ cái đời sống của mình được xây dựng trên hai vấn đề đó là nhân và quả, nên trong cuộc tu của mình nó cũng nằm trên hai cái đó thôi, có lúc mình tu nhân, có lúc tu quả. Tu nhân có nghĩa là khi nào tham ưu khởi lên, phiền não khởi lên mình giải quyết, triệt tiêu nó gọi là tu nhân, còn tu theo quả là mình giải quyết vấn đề lục căn như mắt nhìn thấy cảnh sắc thì phải chánh niệm tỉnh giác ở chỗ đó, mũi ngửi thấy cảnh thinh ...trong những xúc đó nếu chúng ta chánh niệm tỉnh giác để cho phiền não nó chưa sanh, sẽ không sanh khởi, tu như thế ta gọi là tu quả. Ta trở lại khái niệm rất căn bản của đạo Phật, sự hiện hữu của chúng ta trên thế gian này, chỉ là sự hiện hữu, sự tồn tại của nguyên lý nhân quả mà thôi. Khổ một nỗi cái thân này nó là quả của quá khứ mà thôi, mà trên quả này mà chúng ta tiếp tục đầu tư gây dựng một nhân sanh tử mới, thế thì tiếp tục kiếp sau ta sẽ có một thân mới và nó là quả của đời này. Nếu cái thân đó chúng ta không khéo tu học thì trong cái quả đó chúng ta lại tiếp tục gieo nhân, và như đối với Đức Phật, chư Thánh nhân thì các vị khi đã đoạn trừ phiền não rồi thì cái thân tứ đại của các Ngài nó chỉ là quả của đời trước nhưng mà trong cái quả đó, trên tấm thân đó các Ngài không tiếp tục đầu tư, không tiếp tục gầy dựng lên nhân mới, gầy dựng lên tập khí sanh tử của kiếp sau, sau nữa. Nên khi tắc thở rồi, từ giã bụi trần rồi thì các Ngài không có tiếp tục đi vào thai tạng, vào cảnh giới trong tái sanh nữa, cho nên Ngài Xá Lợi Phất khi định nghĩa về chánh tri kiến thì Ngài xé nhỏ thành từng vấn đề của Tứ đế, của Duyên khởi ra để Ngài trình bày, Ngài nói rằng chúng ta chỉ cần hiểu rõ một vấn đề của tứ đế thôi tức là các vị vẫn còn nhớ cái nguyên lý là hiểu được khổ đế tức là hiểu được tập đế, hiểu trọn ven được tập tức là hiểu được diệt đế tức là hiểu trọn vẹn về đạo đế hoặc ngược lại, hiểu trọn vẹn đạo đế cũng là người hiểu trọn vẹn tập đế... cứ vòng vòng như vậy. Cho nên chỉ cần htreenn cách tường tận 1 trong 12 duyên khởi thì coi như chúng ta cũng hiểu trọn vẹn 12 duyên khởi mà đối với người đã hiểu 12 duyên khởi cũng có nghĩa là người thấy rõ được tứ đế. Mà đối với một người hiểu rõ tứ đế, 12 duyên khởi thì người đó sẽ có 1 con đường duy nhất đó là xuôi dòng dẫn đến quả vị Thánh nhân và tối thiểu cũng là người tối tiểu quả vị dự lưu là người đã bước vào cái vòng chảy ở đó là chấm dứt tất cả đau khổ, tất cả luân hồi giống như nước ở trên mái nhà nó chảy xuống máng xối rồi từ từ từ máng xối xuống cái lu, nước trên mái nhà nó không có chọn lựa nào khác, nó không có chảy đi đâu chỉ trừ ra chảy xuống đất, nếu mà nó được hứng bằng một cái máng xối thì nó chỉ có 1 con đường chảy xuống cái lu. Đó là chúng tôi ôn lại nội dung chúng tôi đã trình bày đêm qua, đó là phần đầu của kinh Chánh tri kiến và đêm hôm nay chúng ta tiếp tục đi nốt phần còn lại của bài kinh này. Ngài Xá Lợi Phất nói rằng một người mà hiểu được thiện và bất thiện căn bản của thiện cũng là chánh tri kiến, tiếp theo Ngài nói hiểu được tứ diệu đế hoặc từng phần của tứ đế một cách tường tận thì cũng là chánh tri kiến. Rồi chư tăng hỏi thêm ngoài cái hiểu biết đó ra, còn cái gì nữa thì Ngài mới nói rằng hiểu được tường tận cái già và chết cũng là chánh tri kiến, hiểu được tường tại cái sanh xuất hiện trong thế gian này, cội nguồn nào dẫn đến sanh già bênh chết thì cũng là chánh tri kiến. Chư tăng này lại hỏi thêm ngoài những điều đó thì một vih hành giả, một vị Thánh đệ tử còn nhìn thấy cái gì nữa mà có thể gọi là chánh tri kiến, thì Ngài nói còn nhiều lắm có thể thấy rõ được hiểu rõ được thế nào là hữu, chữ hữu ở đây như đêm hôm trước chúng tôi có trình bày nội dung đối thoại giữa hai vị trưởng lão là Ngài Narada và Ngài Sarati, thì Ngài Sarati có hỏi Ngài Narada thế nào là niết bàn thì Ngài Sarati trả lời bằng một cái câu rát ngắn gọn và đó cũng là câu trả lời chung mà Đức Phật và các vị Thánh tăng khác cũng thường dùng để trả lời cho những trường hợp tương tự là " Hữu diệt là niết bàn" chúng ta khi nghe Phật Pháp trong Zoom này thì chú ý một điều rất quan trọng là nhiều khi mình có lo bàn về vấn đề có con số rõ ràng như là 4 là tứ đế, 5 là ngũ uẩn... nhưng chúng ta quên để ý 1 điều nhiều khi trong Phật Pháp này chỉ có 1 chữ thôi mà ở trong đó nó chuyên chở một nội dung Phật Pháp vô cùng sâu rộng nếu không muốn nói là trọn vẹn Phật Pháp nằm trọn vẹn trong 1 chữ đó thôi, vd như trong chữ KHỔ, nếu hiểu một cách tơi nơi tới chốn thì cũng có nghĩa là chúng ta đã hiểu được trọn vẹn về Phật Pháp, tương tự chữ SANH. Ở đây chư tăng hỏi Ngài Xá Lợi Phất ngoài những điều mà ngài trình bày ở trên thì còn trường hợp nào được gọi là chánh tri kiến thì ngài trả lời còn, trường hợp như vị thánh Đệ tử hiểu rõ thế nào là HỮU, con đường tại ra HỮU, cứu cánh chấm dứt của HỮU và thế nào là con đường dẫn đến cứu cánh đó thì đó cũng là chánh tri kiến và vị đó coi như là hiểu toàn bộ chánh pháp. Hữu ở đây có hai trường hợp được giải thích (1) Hữu gồm sanh hữu và nghiệp hữu tức là cái sở hữu tư trong các cái nghiệp thiện ác còn sanh hữu là tâm tái tục dẫn vào các cảnh giới tái sanh cao hay thấp, khổ/vui, nhưng có trường hợp Ngài Xá Lợi Phất giảng y như vậy nhưng ngài có cái phân tích khác đó là (2) dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu. Nếu mang cách giải thích Hữu là sanh và nghiệp mà ghép vào bài kinh này chúng ta có đến 6 hữu. Nói qua cho những người chưa học A tỳ đàm thì nghiệp hữu là sự đàu tư cố ý trong lúc tạo các nghiệp thiện/ác, sanh hữu là tâm đầu thai của mình). Ta lấy 3x2=6, dục hữu có nghĩa là dục nghiệp hữu (sở hữu tư trong các tâm thiện/ác của chúng sinh trong cõi dục giới) và dục sanh hữu (tâm thiện/ác dẫn đến tái sanh), và tương tự sắc nghiệp hữu là sở hữu tư trong các tâm sác giới .... Stop @ 2:43.30 [10/05/2024 - 10:54 - baokhanhnice] Cũng tương tự đối với sắc hữu có sắc sanh hữu và sắc nghiệp hữu, vô sắc hữu sanh và vô sắc nghiệp hữu .... sắc hữu gồm có 6 (2 dục hữu, 2 sắc hữu, 2 vô sắc hữu), ở đây ngài kể từ thủ sanh ra hữu, thủ gồm có 4 thủ (dục thủ, giới cấm thủ, ngã chấp thủ và kiến thủ), thì một lát nữa chúng tôi sẽ trình bày, bây giờ chúng tôi chỉ nói về hữu vì đang giảng về chữ này. Do có thủ nên mới có hữu mà Niết bàn là chấm dứt tất cả các hữu dù là dục hữu, sắc hữu hay vô sắc hữu và cứu cánh dẫn đến đoạn diệt các hữu đó chính là bát Chánh đạo, vậy giống như chúng tôi đã trình bày trong phần ôn tập thì chỉ riêng chữ hữu này thôi nếu chúng ta hiểu đến nơi đến chốn thì đó chính là bát Chánh đạo. Đức thế Tôn từ đêm thành đạo mà đến Niết bàn, ngài tu suốt 45 năm, trong 45 năm đó ngài có giảng dạy bao nhiêu con đường nào, cứu cánh nào là chỗ chấm dứt của các hữu và con đường dẫn đến cứu cánh đó, nói một cách nôm na nữa thì hữu của chúng sanh trong thế gian này tức là nói về người không có tý gì về A tỳ đàm thì hiểu cái chữ Hữu ở đây là có, họ dịch rất là hay chữ becoming, chúng ta cứ kêu ông A, bà B thực ra chúng ta luôn thay đổi, luôn luôn vô thường nên chúng ta luôn luôn là cái thành một thứ khác, nói một cách hơi rườm rà nhưng rất rõ ràng, chúng ta luôn là cái becoming, là cái đang trở thành cái khác, nếu ông A đánh ông B và ông B đánh ngươc trở lại ông A thì thành ra là có 4 người, A đánh B là 2 người, B phản ứng đánh lại A thì lúc ông phản ứng lại ông ấy đã là con người khác rồi, người bị đánh là một người khác và người trả đũa là một người khác, đó là theo giáo lý A tỳ đàm thì trong TH này ta có 4 người là ít, nói cặn kẽ ra là có vô số người bởi vì từ người là từ chung thôi, chứ cái diệu nghĩa của chánh pháp thì không có cái gì là người cả , nói theo từ của thế gian, toàn bộ cái tấm thân, hình hài và cái đời sống tâm lý của ông A, B luôn luôn thay đổi, luôn luôn trở thành một cái gì đó, trong tiếng Pali nó là "..." tức là sự tồn tại của chúng ta, mà mình là người hiểu rõ tồn tại của mình, hiểu rõ con đường dẫn đến sự tồn tại của mình, có được cứu cánh nào chấm dứt sự tồn tại và con đường nào dẫn đến cứu cánh đó thì được gọi là chánh tri kiến, mà người tu hành hướng đến cái quả đạo giải thoát mà không có chánh tri kiến thì không thể nào mà thành tựu được cứu cánh niết bàn giác ngộ. Do vậy nếu ở đây chúng ta nghe giảng về 4 đế, chúng ta phải nhớ hoặc chúng ta có thể nhở đến phần 4 thực cũng được, mà không hiểu nữa thì nghe phần già, chết, sanh, về phần hữu mà hiểu và nhớ được chúng ta cũng hiểu được toàn bộ những gì ở trước mà chúng ta đã không hiểu không nhớ. Tiếp theo chư tăng hỏi thêm còn con đường nào, trường hợp nào còn được gọi là chánh tri kiến nữa hay không thì Ngài Xá Lợi Phất nói có chứ, vị tỳ kheo hiểu rõ thủ, tập khởi tức là cội nguồn của thủ, rồi cứu cánh chấm dứt thủ và đạo lộ dẫn đến cứu cánh đó, hiểu riêng cái thủ này thôi thì coi như cũng hiểu được trọn vẹn 12 duyên khởi rồi, người hiểu rõ 12 duyên khởi là người hiểu rõ tứ đế, hiểu được tứ đế một cách trọn vẹn cũng là thánh nhân rồi, còn như mình mình hiểu theo kinh sách thôi, chứ cái hiểu của mình không giống như cái hiểu của bâc Thánh, nhưng mà chúng ta cũng phân biệt thế này không giống ở dây không có nghĩa là sai mà nó chưa có tới mức, như là mình chưa uống coffee thì mình đọc sách, nghe người ta mô tả thì mình cũng hiểu dược một cách đại khái, nôm na nhưng mà nếu mà mình chưa từng uống qua 1 giọt coffee nào thì mình có nghe giải thích hoặc đọc bao nhiêu sách về coffee thì cái hiểu của mình, cái biết của mình so với người từng uống, từng nếm một giọt coffee là không so được, bởi vì mình chưa phải là Thánh nhân cho nên tất những gì được gọi là Chánh tri kiến của phàm phu tuy nó không được 100% như bậc Thánh, nhưng nó là cái căn bản, nền tảng cho Thánh trí tương lai của mình, chứ nếu mà mình nói rằng cái Chánh tri kiến của phàm phu và Thánh nhân giống nhau, nếu nói vậy đâu cần phân biệt, tu hành thành thánh làm chi, nhưng mà mình nói học hỏi cho nhiều nhưng cái biết của mình không giống Thánh nhân thì học làm chi, đó cũng là cái sai, học lý thuyết mình đâu biết được cái căn duyên của mình nó nhiều hay ít, biết đâu với cái căn bản về Phật Pháp, tuy trên lý thuyết thôi nhưng với căn bản đó chúng ta lúc đó, kiếp này hoặc kiếp khác chúng ta có thể trở thành thánh nhân. Rồi có một số người hỏi một câu cắc cớ là "Phật pháp dạy như vậy sao thấy trên kinh người ta đắc quả nhiều quá, còn thời này sao không thấy ai đắc thì chúng tôi nhớ những TH như vậy thì chúng tôi có câu trả lời đại khái là: Chúng tôi chỉ nhắc lại câu nói của Đức Tôn lúc ngài viên tich " Khi nào và ở đâu còn có người tu hành bát Chánh đạo thì ở đó không thiếu thánh nhân" còn đời này mình không nghe nói ông A, bà B chứng thánh là vì hai lý do (1) đây là thời điểm tìm thầy tìm bạn giúp đỡ hướng dẫn cho mình tu hành rất là khó khăn, khó tìm thầy, khó tìm 1 người bạn có đủ sức giúp mình (2) nếu quả thật có những vị Thánh nhân mà chứng đăc, trải nghiệm được chánh pháp thì thánh nhân họ không có như mình tưởng tượng, các vị có chứng cũng không la làng lên là tôi chứng quả, la có hai cái bậy: các Ngài đâu có lấy đó là cái điều hãnh diện đâu để mà khoe, các Ngài coi chứng đắc Đạo quả nó như là một người bênh biết mình đã hết bênh rồi, ngày nào còn bệnh là còn khổ, ngày nào hết bệnh là hết thôi, chứ măc chứng gì mà đi khoe rằng là tôi hết bệnh, các Ngài chỉ khoe hết bênh thôi chứ đâu như mình tưởng tượng chứng đắc quả rồi có kỳ diệu lắm, xem cái đạo quả giống như cái bằng tiến sỹ, thạc sỹ không phải thế, người chứng đắc đạo quả họ chỉ xem như là cảm giác của người hết bệnh, Ngày xưa, trước đây tháng trước tuần trước mình bị bênh giờ uống đúng thầy đúng thuốc thì hết bênh, cái hết bệnh nó chỉ là hết bênh thôi không còn bênh nữa, chứ các vị đâu có thấy ai hết bệnh mà đi khoe một cách hãnh diện đâu, khoe để chia vui Pháp chứ không ai hết bênh mà đi khoe cái điều đó là cái công trình, kiệt tác thì không có. Stop @ 2:53:54 [20/05/2024 - 04:53 - baokhanhnice] Đối với các vị Thánh nhân nếu quả thật trong đời này, có những vị mà chứng ngộ Thánh quả thì các vị cũng im lặng bởi vì nhiều lý do bởi vì (1) Trong cách nhìn của có các Ngài thì nó có gì đâu mà khoe, nó chỉ là vấn đề cá nhân của các Ngài thôi (2) nói ra nó không có lợi gì hết người ta nghe, người ta bất mãn, không tin, dè bỉu, người ta bôi bác thì vô tình mình hại người ta nữa, cho nên Phật pháp nếu có điều kiện cứ lắng nghe cứ học hỏi, có thể người giảng đó, ông thầy đó, giảng sư đó, sư cô đó mình không có niềm tịnh tín nhưng giống như mình đi ra ngoài chợ đâu phải mình bắt buộc người bán hàng phải có đời tư ntn, phải có khung hướng về tâm lý về giáo dục ntn mình mới mua hàng, đã là ra chợ thì cái giống gì mình cũng mua nếu thấy nó là cần còn bản thân người bán họ có ra sao thì mình cũng đừng có để ý nhưng làm sao sau buổi chợ đó mình có đủ các thứ gia vị, rau cỏ mình nấu ăn,còn cái chuyện người bán họ ra sao thì đó là vấn đề của họ, cho dù những hiểu biết của chúng ta, cho dù chúng tôi chia sẻ cho quý vị về tứ đế, về 12 duyên khởi, về 37 Pháp trợ Bồ đề phần về bất thập thiện hay thập thiện, những sự chia sẻ đó không sao bằng được sự chia sẽ của một vị Thánh nhân đã chứng ngộ, đã trải nghiệm nhưng có một điều là rất có thể điều chia sẻ đó nó giúp được cho chúng ta ở một chỗ nào đó trong đời sống nội tâm, trong đời sống tu học và xem đó như một món đồ mà mình mua ở ngoài chợ vậy đó, mua rồi thì biết đâu cũng có lúc mình sài tới thì ở đây chúng ta đang cùng nhau nghiên cứu về những vấn đề về giáo lý và trong bài kinh chánh tri kiến mà chúng tôi lần lượt trình bày từ 4 đế sau đó đến 12 duyên khởi, đó chỉ là cách trình bày của 1 vị phàm phu có thì giờ học hiểu, thì dĩ nhiên chúng tôi có cái giới hạn của riêng mình, có điều quan trọng là các Phật tử chú ý ở một chỗ rất là cần thiết cho chúng ta đó là khi xem bài kinh này chúng ta sẽ thấy có nhiều khi chỉ 1 chữ thôi mà hiểu tơí nơi tơí chốn thì nó một giá trị tương đương với những cái vấn đề mà chúng ta xem là thâm sâu là quan trọng, thường là họ nói đến đế thì chúng ta phải nói đến 4 đế, nói đến duyên sinh thì chúng ta phải nói đến 12 duyên sinh vv... nhưng mà ta xem bài kinh này chúng tôi rất là hoan hỷ ở chỗ qua cái phân tích của Ngài Xá Lợi Phất chúng ta thấy chỉ cần hiểu 1 vấn đề mà hiểu cho tới nơi tới chốn thì cũng đã là toàn bộ Phật Pháp rồi, và khi đọc nghiên cứu bài kinh này thì chúng ta thấy câu Phật ngôn của Đức Phật ngài dậy rằng " Đối với người nghe đọc nhiều mà không thấm thía thì cũng không được gọi là đa văn mà vơi 1 người chỉ nghe bài kệ 4 câu mà hiểu tới nơi tới chốn thì ta *Tức là Đức Phật" vẫn gọi là đa văn " hồi đó nghe câu này chúng tôi thấy kỳ kỳ, tôi nghĩ một bài kệ mà hiểu tới nơi tới chốn thì cũng là bài đó thôi, chứ làm sao mà gọi là đa văn được so với 1 người đã thuộc lòng tam tạng, tinh thông nhiều bộ kinh, cái đó làm sao mà chấp nhận được, có lẽ Đức thế tôn chỉ nói để an ủi thôi, đúng là hồi xưa chúng tôi có nghĩ như vậy, bởi vì có thể nhờ cái kệ đó mà người ta đắc rồi, với trí tuệ thánh nhân người ta có thể hiểu ra nhiều điều khác nhưng mà ở tuổi này và xem được bài kinh chánh tri kiến này thì chúng tôi lại hiểu câu kệ đó một cách khác, tức là chỉ 1 bài kệ của Ngài Atatri ngài dạy cho Ngài Xá Lợi Phất nếu mà phân tích ra theo giáo lý A tỳ đàm thì phải nói đó là toàn bộ tứ đế và tứ đế chính là toàn bộ Phật pháp, bài kệ đó chỉ có 4 câu thôi: "Vạn Pháp tùng duyên sinh Vạn Phấp tùng duyên diệt Ngã Phật đại sa môn Thường tác như thị thuyết" Chỉ có thế thôi và ở đây Ngài Xá Lợi Phất ngài còn thu gọn nữa, trường hợp như bài kệ của Ngài Atatri ít ra cũng được 4 câu, đằng này chỉ có được 1 chữ thôi, đó là chữ "HỮU" hay là chữ "THỦ" hay là chữ sanh thì toàn bộ 12 nhân khởi này cần phải hiểu từng điều theo 4 khía cạnh của tứ đế dầu đó là vô minh hay là hành, thức, danh sắc hay là lục nhập hay là xúc, thọ, ái, ... thì từng điều trong 12 duyên khởi này cũng cứ theo cái cách cũ mà hiểu, tức là cứ mỗi điều (tri) trong 12 duyên khởi cần được hiểu đúng theo 3 khía cạnh: khổ, tập, diệt, đạo là bản thân nó tập khởi đoạn diệt là đạo lộ nào đã dẫn đến cứu cánh chấm dứt nó, thì mỗi tri trong 12 duyên khởi cũng hiểu theo 4 khía cạnh này. Chúng tôi cứ nói lòng vòng là vì chúng tôi muốn giảng chỗ đó, bây giờ tôi sẽ giải thích từng chi trong 12 duyên khởi thôi, còn ở mỗi chi thì các vị có thể hiểu theo cách trước, tức là nói đến vô minh duyên hành, hành duyên thức... tương tự thức cũng có 4 khía cạnh thức là gì, tập khởi của thức, cứu cánh của thức và con đường dẫn tới cứu cánh đó ...tất cả các tri còn lại cũng như thế mà hiểu Stop @ 3:00:00 [21/05/2024 - 11:21 - baokhanhnice] Chánh kiến không có biết gì về chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiêp, chánh mạng thì cũng 13 pháp tu khắc khổ đó, lúc bấy giờ thành pháp khổ pháp khổ, pháp hạnh được coi là giới cấm thủ, tức là người tu mà không biết gì về bát chánh đạo hết thì bất cứ một pháp tu nào, hình thức hành trì nào của mình trong cuộc tu hành nhắm đến cứu cánh giải thoát mà hoàn toàn không liên hệ gì đến tinh thần bát chánh đạo, thì tất cả pháp môn đó đều được gọi là giới cẩm thủ cả, trong tiếng Pali gọi là Silabata paramasa có nghĩa là giới và nghi thức tôn giáo như là mình cúng dường thần lửa hay là mỗi sáng xuống dưới sông, bên Ấn họ lõa thể không mặc áo quần, mùa đông xuống sông Hằng ngâm nước để rửa tội, hoặc có những giáo xứ mà cho rằng càng đầy đọa thân mình cho nó đau khổ như vậy thì đấng trí tôn ở trên trời cao thâm thẳm sẽ thương tình cho mình được giải thoát, có những người họ có những niềm tin kỳ cục vậy đó, cho đến bây giờ bên Ấn vẫn vậy, hôm nay có Phật tử trong khi nghe chúng tôi trình bày về vấn đề này mà các vị có tò mò muốn biết khổ hạnh của Ấn là sao, rồi không biết bây giờ Ấn có hay không hay chỉ có trong kinh nói thôi, thì các vị cứ lên Internet đánh chữ (không biết sư viết chữ gì) quý vị order cuốn này có 19$. Người ta cho mình coi được tất cả những hình thức khổ hạnh, đầy đọa thân xác tai Ấn bây giờ, cuốn đó toàn hình màu tại Ấn thời điểm bây giờ chứ không phải thời Đức Phật xa xưa mấy chục thế kỷ, tôi nghĩ rằng không xem cuốn đó quý vị cũng không có tin, coi sách thì còn may ra chứ không xem thì không có tin là có những người mà họ nghĩ ra chuyện trời ơi đất hỡi như vậy, các vị có tưởng tượng trời nắng chang chang bên Ấn như vậy mà họ trồng chuối, đưa 2 chân hàng giờ như vậy, có người lấy phân bò chét đầy người, không mặc áo quần mà lấy phân bò làm áo quần, có người lấy phân bò phơi khô đốt lên cho khói bốc lên như thắp hương trầm, có người họ làm những hình thức mà chúng tôi không có tiện miệng để kể ra bởi vì nó kỳ, xem thì tự nhiên biết, có nhiều hình thức kỳ, vd như để diệt dục họ làm những hình thức rất lạ, mình coi mà không tưởng tượng ra được, tất cả những cái đó đều được gọi là giới cấm thủ, tức là tu hành mà không theo tinh thần bát chánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng, phần còn lại chúng tôi chỉ giải thích thôi Thọ cũng vậy, ở đây thọ gồm có 6 tức là đời sống của chúng ta, cái gọi là đời sống của từng người trong thế giới này nó chỉ là sự tồn tại của lục căn thôi cho dầu đó là nữ hoàng hay người hành khất thì cũng chỉ là tồn tại của 6 căn chứ không phải là vì mình có nhiều tiền mình có danh tiếng thì sự tồn tại của mình nó sẽ khác, nó vẫn là 6 căn và thọ ở đây là gì đó là những feeling bad or good mà nó phát sinh ra từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Khi con mắt mình nó nhìn cái gì, tai mình nghe tiếng gì, mũi mình ngửi mùi gì, lưỡi mình nếm cái gì, thân mình đụng chạm cái ý và ý mình nghĩ về cái gì thì không có lúc nào là mình không có cảm giác hết. Có lúc mình vui có lúc buồn, có lúc thọ xả, thọ ưu, thọ hỷ vv... thì không có lúc nào mà trong người mình nó không có cái tâm, cái tâm của mình nó (con không nghe thấy), một người tu hành nếu nhắm mình không có nhớ Phật pháp nhiều thì mình nhớ 1 chữ thọ thôi, và luôn luôn tâm niệm thế này tôi sẽ làm chủ cái thọ của tôi, đó là cái điểm đặc biệt nếu mà chúng ta không có nhớ, bây giờ mình lớn tuổi quá rồi, mình phải lo gia đình, đi làm công sở mà quá mệt rồi bây giờ mình làm sao mầ có thời giờ hoc, tu hành nhức đầu quá, thì thôi bây giờ nếu trường hợp nào quý vị không có thì giờ, chúng tôi đề nghị theo tinh thần của bài kinh này các vị chỉ tu và nhớ 1 chữ thôi, đó là chữ thọ tất cả mọi buồn vui nó chỉ là phù du và tôi không để lục căn của tôi nó bị các cảm thọ dụ khị, Ngài Achancha một vị thiền sư rất nổi tiếng của Thái Lan ngài có nói 1 câu nghe đơn giản nhưng cực kỳ quan trọng " Đừng bao giờ tin tưởng vào cảm giác bản thân" cái câu này nếu mà quý vị nào mà có tu tứ niệm xứ các vị sẽ thấm thía vấn đề này nghê gớm, mình luôn luôn bị cảm giác nó dối lừa các vị có biết rằng một trong động lực nó thúc đẩy cho nền kinh tế Hoa kỳ mà nó mạnh mẽ, ở đây chăc ai từng sống ở Mỹ sẽ biết vì sao nền kinh tế Hoa kỳ nó mạnh vì ngoài những điều kiện mênh mông thiên địa khác thì có 1 điều là Hoa kỳ là xứ sở của quảng cáo, Coca Cola, pizza trên đất Mỹ này, ở đâu cũng có hết và nó có không biết bao lâu rồi nhưng người ta cứ quảng cáo lai rai, quảng cáo hoài và chính điều đó làm cho người dân Hoa kỳ, ở đây chúng tôi không dám xài chữ dối gạt mà chúng tôi phải nói rằng những cảm tình của mình đối với người dân Mỹ nó đến từ lúc nào không biết, coca cola, hay những hãng quần áo quảng cáo hoài tự nhiên nó ăn vào đầu mình lúc nào không hay, cái coca cola thật ra nó chỉ là một thứ nước uống trong trăm ngàn thứ uống khác thôi chứ có gì đâu nhưng mình có cảm tình là vì sao: mình xem báo cũng thấy nó, lên TV cũng thấy nó, ra đường ngó tới ngó lui mình cũng thấy nó chính vì chỗ đó cho nên mình có cảm tình với nó hồi nào không hay, như chúng tôi trình bày nhiều lần, chúng ta bị cái cảm thọ cảm giác nó đánh lừa mình, nhiều khi các vị nhớ ra là cái người đó các vị không có ưa, người ta không có chọc ghẹo gì mình hết nhưng vì sao mình không ưa là bởi vì giọng nói người đó, khuôn mặt người đó nó giống giống như cái người mình không có thích và nhiều khi chính mình cũng không nhớ nữa, mình không có nhớ rõ là tại sao mình ghét người ta mà mình nhớ mang máng là họ làm cho mình không thích thôi, rồi có nhiều người mình mới gặp đã có cảm tình là đó vì mình bị cái cảm thọ cảm giác nó đánh lừa mình thôi, bởi vậy mới có chuyện mấy tay du thủ du thực đi gạt người ta nó kiếm sống được vì nó hiểu tâm lý quần chúng, tức là họ luôn sống trong cảm giác, ít khi dùng lý trí, trừ TH quá đặc biệt thôi chứ thường thường mình cứ buông trôi thả nổi theo cảm giác, cảm giác vui buồn của mình noc ra sao, tại sao mình đang đi ở shoping center mà cũng 2 cái chai dầu gội xà bông mình không lấy chai A mà lấy chai B là vì cái màu của B mình thấy khoái hơn, mình gội là dùng xà bông bên trong chứ có gội bàng màu của cái chai đâu, các vị nhớ kỹ đi, chúng ta chỉ dùng xà bông bên trong thôi chứ đau xài vỏ chai nhưng chính cái màu sắc của vỏ chai nó đánh lừa chúng ta, cho nên chúng ta mới có tình cảm hơn chênh lệch, lệch lạc không công bằng trong chuyện mà mình ngắm nghía 1 món hàng, cho nên ở mỹ một trong thành công là họ hiểu rất rõ chữ cảm thọ, chữ đó mà gắn cho Phật pháp thì rất là ngon lành, người Mỳ họ hiểu rất rõ cái feeling cảm giác của người tiêu dùng, họ dụ khị là mua đứt được cái cảm giác của mình là mình không dứt ra được, là mình chết tươi, khổ cách mấy cũng ráng tiêu thụ ráng xài cái món hàng đó bởi vì nó được quảng cáo một cách rầm rộ, hấp dẫn cho nên ngài Achancha nói đừng bao giờ tin vào cảm giác của mình, nó rất là nguy hiểm. Cho nên toàn bộ đời sống của chúng ta nếu cần thì chúng ta có thể nói tất cả là cảm thọ thôi. Buồn vui, chúng ta khổ cực đi sớm về khuya tần tảo một nắng hai sương cũng vì cảm thọ, muốn cho đời sống mình nó vui hơn chút, muốn cho gia đình bố mẹ con cái vui hơn một chút, cho bản thân, bà con vui hơn một chút, chỉ vì chữ vui một chút đó mà mình làm đủ thứ, nhiều khi mình làm cả cái chuyện tội lỗi, dối gạt thiên hạ miễn sao có được vui chút, cái vui đó rất là phù du mà nếu mình chánh niệm tỉnh giác mình sẽ thấy cái vui mà thế gian người ta gọi là hạnh phúc nó chỉ là một sự lắp rắp mà phần lớn là do sự ngộ nhận của mình, nếu mình bình tĩnh thì nó không có gì là vui hết, bình tĩnh ngó thẳng vào cái mặt của nó thì nó không có gì là vui là hạnh phúc có khi còn thấy nó nhạt nhẽo vô vị thạm chí là vô duyên nữa nhưng nhờ chỗ mình sống phóng dật, mình cảm thấy vui là tự nhiên nó vui,chúng tôi có thể chứng minh cho các vị thấy như bây giờ mình ở Cali, chuyện đi Disney land hay Universal .... thì không có gì lạ lùng nhưng nếu mình có người thân bên VNam mới qua, mình dắt đi, có khi mình ngó vào trong mình thấy mặt người thân mình vui vẻ quá, hạnh phúc quá họ ngó trân trối sững sờ một trò chơi nào đó thì tự nhiên mình cũng vui theo, mặc dù mấy cái chỗ đó đối với 1 người dân Cali nó ngán còn hơn chè nếp để qua đêm nữa, ngán lắm rồi vì chỉ lòng vòng ba cái trò chơi đó thôi Stop @ 3:11:31 [22/05/2024 - 07:23 - baokhanhnice] Nhưng hồi xưa lúc mình mới đi lần đầu thì mình bị gạt vì thấy nó vui nó đẹp, nhưng đến khi có người thân của mình đi thì bản thân của mình không còn nữa, nhưng lúc đó mình ngó cái mặt của người thân mình tìm được cái niềm vui trong lúc mình đi, cái đó là vì sao, vì mình không có chánh niệm, chứ nếu có chánh niệm thì mình thấy mấy cái trò đó nó vô vị, luẩn quẩn có chừng đó thôi, ở đây chúng tôi là tu sĩ, không có chứng minh thêm một cách rộng rãi nhưng có thể nói cho quý vị nghe một điều đó là cái hạnh phúc của chánh pháp nó đặc biệt hơn hạnh phúc của thế gian, khi anh càng bình tĩnh, càng sáng suốt càng chánh niệm thì niềm vui trong chánh pháp nó càng lớn, càng sâu, nhưng niềm vui hơn nó lại khác khi nào bình tĩnh sáng suốt nhìn thẳng vào cái diện mạo của nó thì nó mất đi không còn vui nữa, mà những niềm vui ăn chơi sa đọa rồi đàn đúm bè bạn rồi hút sách, những cái đó nó chỉ vui khi có một chút quên mình, chứ tỉnh táo không có vui, phải hơi tửng tửng, phân thân chút xíu nó mới vui, thì đó là khác biệt giữa hạnh phúc thế gian và hạnh phúc trong Phật phâp, cho nên khi bàn đến cái thọ là chúng ta phải hiểu như vậy, toàn bộ đời sống này nó chỉ là sự giáp nối của 6 thọ thôi, tức là những cảm thọ do mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm mà chúng ta sinh tử luân hồi cũng vì chúng ta đối với thọ là đi theo tức là nó đưa mình đi đâu là mình đi theo nó, mà cảm thọ là cái gì đó rất tương đối ước lệ, chứ nó không có tiêu chuẩn nào để gọi là tốt hay xấu cả, chúng ta thương hay nghét, thích hay sợ chúng ta bám hay chúng ta buông tất cả những cái đó là do cảm giác, thái độ của chúng ta đối với ngoại cảnh từ đó nó nảy sinh ra một thứ cảm giác và thế là mình hành xử theo cảm giác đó, rồi cái nữa là cái xúc, xúc ở đây cũng gồm có 6, toàn bộ đời sống của chúng sanh nếu nói là chỉ có 6 xúc cũng đúng không có sai, tức là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân ý xúc, chúng tôi quên trình bày 1 điều đối với thọ thì phải hiểu rõ thọ cũng gồm có 6 như vậy, rồi thọ nó đi ra từ xúc, nếu không có xúc thì không có thọ. Xúc tức là sự gặp gỡ giữa căn và cảnh và thức, nếu không có cảnh gặp gỡ này thì sẽ không có cảm giác, nếu con mắt của mình nó không ngó tùm tum, lỗ tai không vểnh lên để bắt mọi thứ âm thanh, lỗ mũi không sẵn sàng để ngửi mọi mùi thì như vậy mình sẽ hạn chế được cái xúc hoặc khi bất đắc dĩ nó có cái xúc thì mình cũng chánh niệm tỉnh giác, mình có thể control điều hành được cảm thọ của mình. Chính vì mình để buông lung tha hồ cho lục căn của mình nó contact hết cái này đến cái khác, nó tiếp xúc trần cảnh này đến trần cảnh khác thì nó mới nảy sinh ra thọ, người tu họ giải quyết thọ bằng cách họ điều động ở phần xúc, chính xúc là con đường dẫn đến thọ, bây giờ ngài Xá Lợi Phất ngài ấy trình bày qua xúc, ngài nói toàn bộ Stop @3:14:50 [23/05/2024 - 10:47 - baokhanhnice] đời sống của chúng sanh nếu chỉ nói là 6 xúc cũng đúng chứ không có sai, tức là đừng để con mắt của mình nó đi kiếm cái gì để nó ngó, để lỗ tai mình kiếm gì nó nghe, .... thì khi mình đọc sách nghe Pháp mình mới thấy rõ con người mình, hồi còn trẻ 20, 18 đọc bài kinh này chúng tôi không có thấm bằng bây giờ, giờ mình ngồi yên thì thấy nó đúng chứ không sai, tâm viên ý mã - viên tức con vượn, mã con ngựa thì mình không có cách chi mà ngồi yên 6 căn nó không làm việc, nó phải làm việc liên tục, mình ngồi nhắm mắt nói ngồi yên không ngó tầm bậy nha, thì lúc đó lỗ tai mình nó làm việc, có 1 âm thanh gì đó là nó đi theo, có ai chiên xào nấu nướng gì đó là lỗ mũi mình nó làm việc rồi, lưỡi của mình chỉ cần mình khát uống vào một cái nhất là ly nước lạnh thì lưỡi làm việc, rồi cái thân của mình nó không yên luôn. Nếu mình không có cái gì nghe, ngửi, nhìn thì các xúc giác sẽ làm việc, thôi thì mình thấy nó đau, cái kia nó nhức chỗ kia đối với 1 người không có tu hành gì hết, không biết Phật Pháp gì cả thì chúng ta suốt ngày để cho mắt tai, nó thấy cái này cái kia thì mình sẽ không thấy cái thân này là khổ, nhưng đối với người có hành thiền, ngồi xếp chân lại hoặc nằm yên hoặc đi đứng thong thả hoặc tâm theo dõi thì mình thấy cái thân này của mình nhiều cái nó khổ lắm đi lâu cũng mỏi, ngồi lâu cũng mỏi, đứng lâu cũng mỏi, mình để yên cái thân này thì mình sẽ nghe thấy nó nhột, châm trích, khó chịu tê buốt chỗ này chỗ kia mà sở dĩ hành giả thấy được là vì hành giả có chánh niệm, tai sao trong thân mình nó luôn luôn có những cảm giác đó, lúc đáy mình mới thấy sự biến chuyển của 4 đại, thân mình từng bước từng bước, từng phút từng phút nó đang đi về tuổi già, đang đi về cõi chết, nó đang đi về quan tài thế cho nên nó mới có những biến chuyển và có những biến chuyển như vậy thì từ tóc đen thành muối dâm và từ muối dâm nó thành bạc, từ tóc bạc mới vô quan tài được chứ, cái thân của mình nó phải đi từ từ như vậy mà mình không có để ý đến nó cho nên mình để cái xúc của mình nó chạy tha hồ, trong khi đó có những cái xúc mình cần mà thấy thì không có thấy vd như là mắt kiếm cài gì hay hay ngó, tai kiếm cái gì hay hay mình nghe thì không biết tu cái xúc là như vậy đó, thì Ngài Xá Lợi Phất nói đối với người biết đạo rồi thì có 1 chuyện cần phải làm dó là biết, hiểu rõ 6 xúc là gì? biết rõ con đường dẫn đến 6 xúc đó là 6 căn, rồi biết rõ cái cứu cánh chấm dứt sự hiện hữu của 6 căn đó chính là niết bàn, biết rõ con đường dẫn đến cứu cánh đó là bát chánh đạo thì nếu mà bây giờ không có nhớ gì hết trơn hết chọi phật Pháp nhiều quá, mình thấy nhức đầu quá, sâu quá rộng quá thì thôi giờ nói chữ xúc thôi, tức là mình luôn luôn tâm niệm trong đầu mình 1 chuyện thôi, tôi sẽ tu pháp môn Xúc tức là tôi không để cho nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc... nó tha hồ nó muốn đi đâu, để lục thức vọng động chạy theo cái này, theo cái kia. Mà giờ tôi là người biết rất rõ cái 6 xúc của tôi, phải hạn chế không để 6 xúc của tôi nó phan duyên với trần cảnh nữa. Như là trước đây trong 1 phút, 1 tiếng đòng hồ, trong 1 ngày thì nhãn xúc nhĩ xúc liên tục xuất hiện còn bây giờ mình hạn chế nó lại không có đi tìm không đầu tư không ước vọng để nó buông cái này bắt cái kia nữa thì xúc nó khởi căn từ 6 căn, bởi vì 6 căn mình không có tu nên như chúng tôi vừa trình bày vì không tu nên mình để 6 căn nó đi tìm trần cảnh, vì đi tìm nên nó mới nảy sinh ra xúc, mà người tu phải hiểu rõ 6 căn là gì tức là 6 nhập, con đường nào dẫn đến cứu cánh, cứu cánh nào chấm dứt sự hiện hữu tồn, tại của 6 căn và con đường nào dẫn đến sự chấm dứt đó. Ở đây chúng tôi muốn nhắc lại hai bài kinh tương đối quan trọng đó là một lần Đức Phật có dạy này các tỳ kheo, thà rằng lấy cái mũi sắc nhọn mà dùi sâu vô con mắt của mình còn hơn để con mắt của mình nó thấy nó đi theo cảnh sắc nào đó tốt xấu nó khởi lên phiền não bởi vì suy nghĩ lại con mắt nó đau đớn thật nhưng còn đỡ hơn là dùng mắt để phiền não khởi lên, nó đưa mình vào cõi, cảnh giới súc sanh địa ngục, ngạ quỷ atula Stop @3:20:42 [28/05/2024 - 11:09 - baokhanhnice] còn lúc mình dùi con mắt nó bị đui như vậy thì nó chỉ đau đớn ngay lúc đó thôi, nhiều lắm là cho nó đau 1 tuần lễ đi, cái đau trong 1 tuần lễ đó không bằng cái đau đớn của 1 người dùng cặp mắt để nhìn cái này ngắm cái kia, từ đó tạo vô số nghiệp. Nếu chúng ta không học phật pháp thì chúng ta không thấy được có nhiều tội ác xuất phát từ con mắt, vd như mình nhìn ngắm người đẹp vật đẹp và con mắt đã giúp mình khởi lên tâm tham, chình vì thấy nó đẹp nên mình mới theo đuổi, chính vì theo nên mới tạo nghiệp nhiều khi tan nhà nát cửa chỉ vì con mắt của mình, rồi âm thanh, nhiều khi mình thương người ấy chỉ vì tiếng nói, âm thanh, giọng hát nên thương người ta, nên chỉ vì cái lỗ tai của mình mà nó làm cho đời người khác nó tan nát, đời mình cũng tan nát, rồi cái lỗ mũi cũng vậy nhiều khi chỉ vì mình muốn xài mỹ phẩm, nước hoa thế rồi mình bán rẻ nhân phẩm của mình, bởi vì chỉ vì muốn xài đồ tốt, trong phòng có đốt trầm, vì đam mê mùi thơm mà chúng ta bán rẻ nhân phẩm của mình để có tiền, để đi mua rồi bôi xức, có phân tích thì mới thấy chỉ cần 1 trong 6 căn: mắt tai, ...mà mình bán hồn cho quỷ dữ, làm nhiều chuyện lắm, chỉ vì nhiều khi 1 trong 6 căn thôi, từ cái thích nó làm nên đủ thứ chuyện nên Đức Phật ngài nói thà rằng dùng vũ khí bén nhọn mà hủy hoại cái mắt, tai, mũi, lưỡi của mình còn hơn là nó khởi lên phiền não. Tuy nhiên vì phương tiện thì ngài nói chẳng thà, đó là Ngài phân tích, chứ còn bài kinh sau thì Đức thế tôn ngài giải thích chỗ này, còn ở đây chúng tôi chỉ phân tích theo bài kinh đang nói tức là đối vói cái tâm thức này chẳng thà các tỳ kheo đi nằm ngủ còn tốt hơn là để cho mình thức rồi mình nghĩ chuyện tầm bậy, tức là nghĩ chuyện để nó khởi lên tâm tham,sân si nếu mà mình không giữ được chánh niệm, và chính những tâm đó đưa mình vào địa ngục, chứ giấc ngủ không đưa mình vào địa ngục. Qua bài kinh khác Ngài có nói "này các tỳ kheo, tu tập về các căn không có nghĩa là hủy hoại các căn, ở bài kinh trước là vì phương tiện nên Ngài so sánh thôi, chẳng hạn như cha mẹ trong lúc la dầy con cái mà nói là hồi đó tao biết mày hư như vậy tao đẻ ra cái trứng vịt còn sướng hơn. Khi mà nghe như vậy nếu mình hiểu theo 1 chiều thì mình hiểu sai, bởi vì thứ nhất làm sao có con người đẻ ra trứng vịt, thứ hai là cha mẹ nói thế là không thương mình nhưng khi mình lớn lên, mình bình tĩnh và hiểu được câu đó thì mình hiểu không phải thế, ai lấy trứng vịt mà so với con bao giờ, nhưng người ta muốn nói là tao sanh cái trứng vịt ấy thì cái trứng nó không làm phiền tao, còn tao sanh mày ra lúc nhỏ thì èo uột bệnh hoạn làm khổ cha mẹ, lớn lên thì bỏ học, theo bạn xấu hoang đoàng làm cho bố mẹ bị măng vốn, mang tai mang tiếng, vv ...còn trứng vịt đẻ ra nó có bị mang tiếng gì đâu, thì dó là câu nói ví dụ mà thôi. Ở đây Đức Thế Tôn cũng vậy ngài nói là vì phương tiện, chứ không phải Ngài muốn cho đệ tử hủy hoại lục căn, vì Ngài nói rõ tu tập lục căn không có nghĩa là hủy hoại lục căn mà là dùng trí tuệ, chánh niệm để điều hành nó. Như Ngài Achancha ngài có kể cho chúng ta câu chuyện trong đời tu của Ngài thì lúc ngài còn trẻ có 1 mùa an cư Ngài có phát nguyện thử trong 90 ngày trong mùa an cư mình sẽ không nhìn bất cứ 1 người nữ nào hết, ngài nguyện sao ngài làm đúng như vậy trong suốt mùa an cư là gần như Ngài không có nhìn người nữ nào hết, ngài đi khất thực hóa duyên thì ngài gần như giữ đúng lời nguyện, theo như luật thì khi đi hóa duyên Ngài chỉ nhìn từ bàn chân Ngài ra phía trước khoảng 2-3m vừa đủ để thấy đường đi vậy thôi chứ không có nhìn xa, có ai cúng dường thì Ngài nhìn vào bát chứ không nhìn mặt người ta, gần hết mùa an cư như vậy tới ngày thứ 89, tự nhiên ngài khất thưc xong ngài nghĩ trong bụng mình giống như đã giữ trọn được mùa an cư rồi, lúc đó ngài còn trẻ chỉ là ý nghĩ tinh nghịch mà thôi, giờ mình ngước mắt lên 1 cái xem, mai là ra hạ rồi, nhưng khi mà ngài ngước mắt lên một cái thì ngài thấy ngay một người nữ có nhan sắc ngay lúc đó Ngài kể lại là ngài thấy 1 luồng điện chạy khắp cơ thể, chúng ta nghe vậy và chúng ta không trải nghiệm như Ngài nên chúng ta không hiểu và hỏi sao cái ông sư mà nhìn người nữ như thế, tôi đi làm ở sở tôi là người đời mà tôi không giật mà ổng là ông sư mà ổng mới nhìn người nữ mà có 1 luồng điện chạy khắp thân, lý do là vì mình ở ngoài đời mình có vợ có con quen rồi, mình có bạn gái mình quen rồi, xin lỗi là mình giống như con cá con tép ở dưới ruộng nó dính sình, dính đất nó quen rồi nó khác, còn như Ngài, là 1 người tu thiền, cách ly gần như là 100% nên Ngài bị shock khi nhìn thấy, tức là có 1 luồng điện nó chạy trong người, lúc đó ngài có suy nghĩ thế này " Oh thì ra đối với phiền não thì cái cách giải quyết không phải là đóng cứa, bế quan mà mình phải giải quyết nó ngay ở trong nội tâm của mình chứ không phải là mình chỉ đóng cửa bằng cách khép mắt không nhìn, đó là một kinh nghiệm tâm linh, một kinh nghiệm rất thưc tế trong đời tu của Ngài, chúng ta cũng nên lấy đó là bài học rất giá trị, tức là những vấn đề phiền não chúng ta không thể giải quyết bằng cách nhắm mắt xoay lưng đi một cách tiêu cực và bệnh hoạn, yếu đuối mà phải giải quyết nó ngay ở trong nội tâm của mình, giống như cái nợ chúng ta không giải quyết bằng cách là chúng ta quên đi, mình thiếu người ta tiền mà nhìn chủ nợ chúng ta quên đi, khi gặp chủ nợ chúng ta không thèm nhìn, không thèm nói chuyện không phải như thế mà phải giải quyết ngay căn bản là tìm cách trả nợ và không mượn nợ nữa, đó mới là cách giải quyết, chứ không phải là thiếu một đống nợ để thanh thản tôi không nghe không nhìn chủ nợ, ban ngày và cả tối không thèm nhớ đến, nghĩ đến số tiền mượn nữa, cái đó không phải lề cách giải quyết. Ở đây Ngài Achancha kể cho mình nghe câu chuyện đó đối với bài học rất đặc biệt. Ở đây Ngài Xá Lợi Phất trình bày từng vấn đề trong 12 duyên khởi, xúc, thọ, ái, thủ, lục nhập ... mà đối với 1 người tu mà hiểu rõ lục căn là gì con đường nào dẫn đến lục căn, rồi cứu cánh nào chấm dứt sự tồn tại của 6 căn và bát chánh đạo chính là cứu cánh dẫn đến cứu cánh đó, đó chính là 1 hiểu biết dẫn đến chánh tri kiến, một sự hiểu biết dẫn đến cứu cánh giác ngộ niết bàn mà một người tu học thì dứt khoát phải có sự hiểu biết này và một người hiểu rõ thế nào là lục nhập một cách tường tận theo 4 khía cạnh tứ đế thì người đó có cơ hội trở thành vị thánh nhân, có thể ngay đời này chỉ mới gieo chủng tử, duyên lành, gieo hạt giống bồ đề cho kiếp sau bởi sự hiểu biết đó chính là chánh tri kiến, người tu hành dầu đắc quả đời này hay đời sau đi nữa thì không có chánh tri kiến không thể thành tựu được chánh tín Stop @ 3:30:54 [01/06/2024 - 10:55 - baokhanhnice] Mà ở đây ngài Xá Lợi Phất dạy rằng: một người hiểu biết tường tận về lục căn hay lục nhập, cái trí tuệ hiểu biết đó cũng được gọi là chánh tri kiến, vì sao? đó là sự hiểu biết tường tận về lục nhập chính là sự hiểu biết tường tận tất cả Phật, Pháp. Tiếp theo chư tăng mới hỏi Ngài rằng ngoài cái hiểu biết về lục nhập ra còn có cái hiểu biết nào nữa được coi là chánh tri kiến hay không? thì Ngài trả lời có chứ, đó là trường hợp họ không nhớ gì hết chỉ nhớ danh sắc là gì, con đường nào dẫn đến danh sắc, rồi cứu cánh nào chấm dứt sự tồn tại của danh sắc và con đường nào dẫn đến sự chấm dứt đó, và chỉ cần 1 người hiểu được danh sắc qua 4 khía cạnh đó (theo cách hiểu tứ đế) thì coi như là người có chánh tri kiến (một đoạn này không có tín hiệu) ở đây thế nào là danh thế nào là sắc, ở đây có một chuyện rất đặc biết đó là các vị nào có được trung bộ kinh hoan hỷ lật 2 bài " đại phương quảng và tiểu phương quảng" hai bài kinh đó với bài chánh tri kiến này có một mối quan hệ rất mật thiết và nội dung của 3 bài kinh này có thể được xem là căn bản cho người tu hành đặc biệt là đối với các hành giả tứ niệm xứ mà không biết ba bài kinh này thì là một thiệt thòi mất mất rất đáng tiếc, cho nên các vị nghe bài kinh Chánh tri kiến này xong thì có thể tìm đến đọc thêm hai bài kinh chúng tôi đã đề cập, trong trung bộ 1. bài kinh hình như số 42, 43, 44 gì đó thì các vị sẽ thấy nội dung nó có chỗ tương quan liên hệ rất lớn giữa 3 bài kinh này với nhau, và các vị cũng thấy ra điểm đồng và dị rất xuất sắc, bây giờ chúng tôi giảng về danh sắc trước sau đó các vị sẽ thấy mối quan hệ, danh sắc trong cách hiểu của 1 học viên A tỳ đàm thì sắc ở đây là 28 sắc pháp, tất cả những gì gọi là vật chất đều gọi là sắc, còn danh là chỉ cho tâm vương tâm sở, trong bài kinh này Ngài Xá Lợi Phất không có phân tích danh sắc theo như cách mà chúng ta vẫn nghĩ, vẫn học vẫn tưởng vẫn suy tư, ở đây Ngài nói danh là: thọ, tưởng, tư, xúc và ý. Thọ ở đây tức là thọ uẩn, sở hữu tưởng là tưởng uẩn đúng rồi nhưng mà 3 cái tâm sở còn lại tư, xúc và tác ý thì nó nằm trong số hành uẩn nhưng không phải trọn vẹn hành uẩn, các vị nhớ chỗ này, bởi vì hành uẩn nó gồm đến 50 tâm sở trong giáo lý A tỳ đàm Nam Tông, nhưng mà ở đây Ngài Xá Lợi Phất chỉ nói đến 3 tức là tâm sở tư, xúc và tác ý bởi vì đây được xem là 3 cái nền tảng, căn bản lớn nhất cho cái gọi là hành uẩn, còn những cái kia như là bất thiện, tịnh hảo nó chỉ là phần điểm xuyết, trường hợp riêng biệt mà thôi...3 chi nền tho như chánh sớ được ngài Xá Lợi Phất nhắc đến là do 2 lý do (1) Tư, xúc và tác ý là 3 cái căn bản của hành uẩn đồng thời khi nhắc đến hành uẩn mà nhắc đến 3 cái này đối với hành giả tứ niệm xứ rất là có lợi, các vị lưu tâm chỗ này. Đối với hành giả tứ niệm xứ họ sẽ thấy rất là rõ hành uẩn thông qua 3 tâm sở xúc tư và tác ý này, đó là lý do tại sao khi mà ngài Xá Lợi Phất khi nói về danh thì Ngài chỉ lấy Tho uẩn, tưởng uẩn và một phần nhỏ của cái gọi là hành uẩn mà thôi. Thọ là tất cả feeling tốt xấu của mình như là vui, buồn khổ lạc ưu hỷ xả, Tưởng tiếng anh kêu là Perception mình hiểu nó là khái niệm, nếu mà phân tích nó ra thì các vị sẽ rất là dễ đi đến ngộ nhận nhưng mà nói nôm na thì chúng ta có thể ra vd tại sao chúng ta thấy cả hai cái đều tròn tròn dẹt dẹt nhưng 1 cái thì kêu là cái tô, cái kêu là cái chén, rồi hai người cũng mắt tai mũi lưỡi như vậy nhưng có người mình kêu là người nam có người thì mình kêu là người nữ, rồi cũng 2 chiếc xe, nhìn xa xa cũng giống nhau nhưng cái xe A nó đắt tiền còn xe B thì rẻ tiền chiếc là Mecedes, lexus, chiếc là toyota camry, chiếc là accord ...rồi tất cả mọi thứ chúng ta nhìn luôn luôn có 1 sự phân biệt rất rõ ràng, tức là cái tưởng. Tư ở đây là sự cố ý nếu dịch cố ý cùng kẹt quá nhưng ở đây tư hiểu môn na tư là sự toan tính, tính toán toan tính trong tâm của chúng ta khi hành động, nói năng hay suy nghĩ thì cái toan tính đó được gọi là tư, còn xúc ở đây là sự gặp gỡ của các danh uẩn, còn tác ý ở đây là cái sự cố tâm, chuyên tâm gọi là tác ý. thì săc ở đây gồm có 4: đất, nước, lửa, gió ở đây xin các vị nhớ 1 chỗ ngài Xá Lợi Phất, Ngài trình bày, ngài giải thích những vấn đề giáo lý ở đây theo cách Nguyên thủy, và không có nghĩa là những giáo lý A tỳ đàm của chúng ta học bây giờ nó sai với truyền thống nhưng phải nói là Phật Giáo trải qua nhiều giai đoạn, tùy theo nhu cầu của thời đại mà có những vấn đề được phân tích được diễn giải ra rộng rãi hơn, ví dụ như có những khái niệm hôm nay mà nếu chúng tôi nói ra chắc các vị giật mình vd chữ Parami là Ba la Mật hay là khái niệm về Paramatha, khái niệm về chân đế, các vị nào mà có biết được đọc được chữ Pali thì càng tốt còn quý vị đọc tiếng Việt nó hạn chế hơn bởi vì bây giờ Tam tạng Pali chưa được dịch ra tiếng Việt trọn vẹn nhưng mà Quý vị ...chúng tôi nói cái này có khi quý vị vừa ngạc nhiên vừa bàng hoàng tức là những khái niệm như là Ba la mật hay là Chân đế , Tục đế gần như là không được nói đến trong Chánh tạng, đó là chúng tôi cẩn thận bởi vì chữ Ba la mật, Parami trong kinh tạng chúng ta chỉ thấy duy nhất trong bộ "..." nằm trong cuốn tạng số 32, đó là bộ Hạnh tạng, và chỉ có bộ này mới nhắc đến chữ Parami, chứ những bộ khác chúng tôi chưa có thấy. Và theo lịch sử Phật giáo cũng như theo các ....(bị mất 1 đoạn vì băng trắng) ... như là mình ở trên cao mà nhảy xuống dưới nước, các vị ở đây biết nếu mình mà tắm sông mà nhảy từ trên cao xuống cái đùng 1 cái thì cái mặt nước nó va trong cái mặt của mình nó rát chứ không phải đơn giản đâu, ngay cái nước mà sự va chạm đó nó phải có đất, thì đất là cái gì mà xúc giác mình có thể cảm nhận được mà nó được cảm nhận là cứng hay mềm nó được gọi là đất, còn nước là cái gì nó có thuộc tính tan ra và nó huân tụ lại, vd như có những cái mà mình được gọi là cái bàn hay cái ghế thì nó phải có một cái gì đó nó nối kết lại các nguyên tử vật chất lại với nhau thì nó mới hình thành vd như mạt cưa là thành phần nhỏ xíu rơi ra lúc người ta đang cưa tấm ván, muốn có bàn thì chúng ta phải có tấm ván, có gỗ có từng khúc cây thì bản thân mỗi tấm ván đó nó phải có cái gì đó ta gọi là something mà nó làm cho những nguyên tử vật chất nó gom lại, tụ lại xoắn lại hình thành nên cái mà mình gọi là tấm gỗ hoặc miếng ván hoặc là khúc cây, thì sự gom tụ các đơn tử, các nguyên tố vạt chất lại vơi nhau thì quý vị được gọi nước trong giáo lý a tỳ đàm còn lửa là cái nó là nhiệt độ, chúng tôi xin cập nhật lại cho quý vị một khái niệm, nhiệt độ không chỉ cái nào nóng mình mới kêu là nhiệt độ mà cái lạnh mình cũng kêu là nhiệt độ, ở bên Nauy rất là lạnh bởi vì có lúc nó xuống âm 8,10,12 thì vẫn xài chữ nhiệt độ, tức là độ nóng, cho nên tuy là kêu nhiệt là nóng nhưng thật ra lạnh nó cũng là 1 thứ nhiệt độ như vậy thì nóng lạnh đều là lửa, còn gió tức là cái gì mà nó di động nó giúp các vật thể khác trương phồng ra, mình cứ hiểu gió nôm na là wind, là cái mà làm cho mình mát làm cho lá cây lay động nếu mà mạnh thì nó làm cho nhà cửa trốc nóc, hay là tornado hay hurriciane nó làm cho xóm làng tan nát hết gọi đó là gió, nhưng trong A tỳ đàm gió là tất cả những gì tạo ra sự di động trong cơ thể chúng sanh và ngoài cơ thể chúng sanh vd như 1 lá cây nó rơi từ trên cành nó rơi xuống thì cái rơi đó cũng là gió, hoặc là cái cơ thể mình bước đi nó cũng là gió, co duỗi tay chân, sự nhúc nhích của cơ thể nó cũng là gió, là phong đại, thì cái gió ở đây nó không hẳn là cái gì đó làm mình mát, trong giáo lý A ty đàm thì toàn bộ vật chất mà chúng ta thấy mỗi ngày như vàng, bạc, đất, đá, đồng, thau, kẽm ... hoặc da thịt con người, tất cả những cái đó đều nằm trong tứ đại hết, đã là cái gì nó là vật chất thì không có gì nằm ngoài thân tứ đại cả, cái gì nó cũng là tứ đại cả, có thể là đất, nước, ...mà thường mình nghĩ đất là riêng, nước là riêng, lửa riêng, gió riêng nhưng trong thực tế một vật thể mà nó tồn tại ở đời này ngày ngay bản thân nó đã có các thành phần đó, có tứ đại nằm tiềm ẩn trong đó. Vd mình thấy cái bàn ghế nó nằm im thì mình nghĩ nó làm gì có gió nhưng thực ra có gió đó là sự chuyển động của các nguyên tử vật chất ở trong thớ gỗ, trong bản thân các kim loại khoáng chất trong đó có sự chuyển động và sự chuyển động đó cũng được gọi là gió và sự chuyển động đấy mình không thể lấy mắt thường thấy được. Từ chỗ mà phân tích nó hơi xa đà của những nhà luận sư mà nó đi đến sự quá trớn của định nghĩa tính không, tính không trong giáo lý trung quán nó rất là hay Ngài Long Thọ không có tạo ra cái gì mới mẻ hết, cái chi Ngài cũng nói không, cái tánh không ở đây nó không phải là không có mà nó là không có cái tôi, không có cái ta không có cái gì hết. Ngài nói không là bởi vì các Pháp nó đều vận hành sinh hóa theo nhân duyên, theo nhân duyên mà nó đến nó đi chứ nó không có gì là đơn thuần bất biến, không có linh hồn không có bản ngã, nó không có một thượng đế chí tôn nào được điều động hết, tất cả nó do nhân duyên giả lập mà tạo ra, do nhân duyên hòa hợp mà nó có, đến và đi nó không có 1 chủ thể trường tồn bất biến, trường cửu vĩnh hằng, thì ngài gọi cái đó là tính không, trên cơ sở đó có nhiều ngài lý luận và đi xa hơn trong thực tế không có cái gì cả, nếu mà mình đêm nghiền nát 1 cái tô, cái chén ra, chia thật nhỏ ra cuối cùng không còn cái gì hết, thì đó có thể là phép phân tích đị quá đà mà trong khi phân tích theo A tỳ đàm của Nam tông thì đát nước lửa gió đây không còn cái hình thể nữa mà chỉ còn là thực chất thôi. Ở đâu có cứng mềm thì đó là đất, ở đâu có nóng lạnh thì đó là lửa, ở đâu có sự tan ra, cuốn tụ lại thì đó là gió, thì đó là cái cách phân tích của Phật giáo Nam tông. Ngài Xá Lợi Phất trình bày từ danh, sắc như vậy đó, một nguwoif mà không biết hết mà chỉ cần hiểu được danh sắc cho đến nơi đến chốn thì người đó cũng được gọi là có chánh tri kiến stop @3:50:20 [05/06/2024 - 11:13 - baokhanhnice] cái danh ở đây (trong bài kinh này) tức là thọ tưởng hành thức, còn sắc ở đây là do tứ đại, một người tu hành hiểu rõ sự nhàm chán, ly tham trong tứ đại tức là mình tu tập theo bát chánh đạo thì mình cũng chấm dứt được cội nguồn hình thành nên đạo, thì người hiểu được như vậy cũng là người hiểu được chánh tri kiến, cho nên trong tứ niệm xứ có đề mục gọi là quán tứ đại, là nhằm vào ý nghĩa này. Tức là nếu đối với tứ đại mình ly tham, xả ly không chấp trước thì cũng là con đường tu chứng, vì nhắm đến chỗ này nên ở đây Ngài Xá Lợi Phất mới nói những vị thánh đệ tử hiểu rõ tứ đại là gì, hiểu rõ tập khởi của tứ đại là thức, hiểu rõ cứu cánh chấm dứt sự tồn tại của thức là niết bàn, hiểu rõ con đường dẫn đến cứu cánh đó chính là bát chánh đạo. Bài kinh này nó còn có chỗ rất đặc biệt mà chúng tôi nghĩ rằng chũng tôi cần có 1 buổi giảng nữa là xong, chứ mình gom hết trong đêm nay thì chúng tôi nghĩ là uổng, nên đề nghị các Phật tử chúng ta hãy để phần còn lại cho ngày mai. Hôm nay chúng tôi giảng xong danh sắc rồi thì phần còn lại sẽ là ngày mai. Đêm nay chắc chắn chúng ta phải giải quyết xong phần còn lại của bài kinh chánh tri kiến bởi vì phần còn lại chúng ta không để sang phần sau được, nó sẽ bị loãng đi, khi Ngài Xá Lợi Phất trình bày về các trường hợp hiểu về chánh tri kiến, nào là hiểu rõ được tứ thực là chánh tri kiến, hiểu được sanh già đau chết là chánh tri kiến, hiểu được ái thọ, thủ thức là chánh tri kiến thì chư tăng mới hỏi thêm Ngài Xá Lợi Phất các vị thánh đệ tử hiểu thế nào là thức, tập khởi của thức là gì, cứu cánh nào chấm dứt sự hiện hữu của thức và con đường nào dẫn đến sự chấm dứt đó, Ngài ngưng lại ở đó, thì chư tăng mới hỏi thêm vậy thưa Tôn giả, có trường hợp nào còn được gọi là chánh tri kiến nữa hay không? thì Ngài Xá Lợi Phất nói có chứ đó là TH vị Thánh đệ tử hiểu rõ được thế nào là hành, thế nào là hành, thế nào là nguồn gốc khởi duyên của hành, thế nào là cứu cánh chám dứt sự có mặt hiện hữu của hành, và thế nào là con đường dẫn đến cứu cánh đó, thì một vị thánh đệ tử hiểu được chữ hành này qua 3-4 khía cạnh của tứ đế như vậy thì cũng được gọi là chánh tri kiến, và nếu mà chúng ta xem kỹ chánh kinh của bài này và xem luôn cả phần chánh sớ thì chúng ta sẽ nhận ra một điều là ở đây ...(không nghe rõ tín hiệu) ở đây vị thánh đệ tử hiểu rõ vô minh là gì, tập khởi của vô minh, cội nguồn của vô minh và con đường cứu cánh nào chấm dứt sự hiện hữu của vô minh, con đường nào dẫn đến cứu cánh đó thì vị đệ tử chỉ cần hiểu 1 chữ vô minh này thôi thì vị đệ tử đó cũng có thành tựu được chánh tri kiến rồi. Thì ở đây Ngài có giải thích một cách chi tiết thế nào là vô minh, vô minh ở đây chính là sự không hiểu biết về khổ, về nguyên của khổ, về cứu cánh diệt khổ, không hiểu rõ con đường nào dẫn đến cứu cánh đó được gọi vô minh. mà con đường nào dẫn đến vô minh đây? đó chính là tứ lậu hoặc, trong chánh kinh trung bộ có đôi lúc Thế tôn kể 4, đôi lúc kể có 3 thôi, tức là dục lậu hữu lậu và vô minh lậu, có lúc Ngài kể 3 thì mình phải hiểu ngầm là kiến lậu nó nằm trong hữu lậu, dục lậu rồi cho nên chúng ta biết trong vi diệu pháp khi trình bày về các phần trong tham, 8 tâm tham thì chúng ta cũng sẽ thấy có trường hợp tâm tham hợp tà và ly tà, ta thấy tà kiến nó đã nằm sẵn trong dục lậu rồi, cho nên chúng ta đam mê trong dục trần nếu mà người có khung hướng đoạn kiến thì đoạn kiến đã nắm trong đó rồi, chẳng hạn như giới trẻ bây giờ họ cũng hưởng thụ dục lạc nhưng có vẻ họ bị ảnh hưởng những học thuyết đoạn sinh, chết là hết dành cho những người con chiên bên chúa giáo, họ nghĩ đời sống chỉ kiếp này thôi, chết là hết chính vì thế họ mới yêu cuồng sống vội, sống bất chấp trời đất trăng sao,không kể cha kể mẹ ...họ vui đùa thỏa mái miễn không có đụng chạm đến Pháp luật vào tù ra khám thì thôi, họ sống thậm chí không biết đến ngày mai, tinh thần đó được thể hiện rõ trong dòng văn hóa, thi ca, văn trương chúng ta thấy rất rõ có một lớp người như vậy, có cả băng nhạc được xem là nổi tiếng thế giới, họ chỉ biết sống với có hôm nay, vd ca sỹ Micheal Jackson, dùng quá liều rồi chết, không biết trời đất gì hết. Trong TH hưởng dục không nghĩ kiếp sau thì là đoạn kiến, còn hưởng dục mà mong kiếp sau về cảnh giới nào đó, nghĩ đến cái tôi cái ta thì nó còn dục lậu nằm trong hữu lậu, còn mong mỏi sanh về cảnh giới tái sanh. Nên ở đây khi nói đến vô minh chúng ta phải hiểu được cội nguồn của vô minh là tứ lậu,có chỗ kể 3, có chỗ 4 lậu hoăc. Nếu có thấy kể có 3 lậu hoặc thì ta phải hiểu là kiến lậu nó nằm sẵn trong dục lậu và kiến lậu rồi. Chúng ta ôn lại vô minh là sự bất tri, là sự không hiểu biết về khổ tập diệt đao, rồi con đường dẫn đến vô minh là tam lậu cũng chính là tứ lậu, niết bàn là con đường dẫn đến hết vô minh con đường dẫn đến chánh là bát chánh đạo: chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh mạng..., chính 8 con đường này khi chúng ta tu tập nhiều lúc chúng ta thấy nó không có phải là con số 8, nên nhiều khi người không biết sẽ thấy rằng không có đủ và nhiều khi chúng ta có cái bối rối hoang mang nhầm lẫn là tại sao có lúc thì con đường tu học kể là 8 là bát chánh đạo, lúc thì 5: tính tấn niệm, định tuệ, có lúc kể có 3: giới định tuệ và có lúc Đức Phật chỉ nói có 1 chữ thôi đó là dễ duôi. thật ra Đưc Thế Tôn có kể con đường tu hành của mình là 8, hay 5,3,1 thì là đều giống nhau, không có gì là sai lệch mâu thuẫn ở đây cả, ai học trong vi diệu pháp đều biết là nói tới nơi tơi chốn, trọn vẹn đầy đủ thì cũng chính là bát chánh đạo. stop @ 4:05:50 [08/06/2024 - 10:16 - trangtkhoang] 4:05:50 Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ chỉ có 5 thôi nhưng 5 nó gói gọn Bát Chánh Đạo trong đó và trong Giới, Định, Tuệ chỉ có 3 thôi nhưng cũng gói gọn Bát Chánh Đạo trong đó; hoặc là trong chữ Không Dễ Duôi hay là Chuyên Cần mà Đức Thế Tôn nói vào đêm cuối cùng trước khi niết bàn, chỉ 1 chữ thôi cũng gói gọn Bát Chánh Đạo trong đó. Có hiểu như vậy thì chúng ta sẽ không bị hoang mang, ngờ vực, bối rối, lúng túng khi mà xem những chỗ này. Như chúng tôi vẫn trình bày, cái vòng luân hồi của chúng ta nó là cái vòng tròn lẩn quẩn, tại sao chúng ta có thân này? thì thân này là hiện hữu của Lục Căn, mà Lục Căn là gì, cái này ở đâu nó ra? nói một cách nôm na thì do Lục Ái đời trước mà có Lục Căn đời này; mà Lục Ái đời trước làm thế nào mà nó có được? là bởi vì trong Lục Căn đời trước khi mà nó tiếp xúc với Lục Trần chúng ta không có Chánh Niệm. Khi không có Chánh Niệm thì Tham, Si, Tà Kiến, Ngã Mạn nó mới xuất hiện trong đó, rồi chính những phiền não lúc mà Lục Căn tiếp xúc Lục Trần nó mới tạo ra một cái Lục Căn khác trong tương lai. Cái vòng tròn lẩn quẩn đó được gọi là cái vòng luân hồi hay là cái vòng duyên khởi. Trong một số trường hợp khi trình bày về Duyên Khởi Đức Thế Tôn bắt đầu từ vô minh, nhưng có lúc Ngài bắt đầu từ Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh...nhưng mà ở đây Ngài Xá Lợi Phất nhấn mạnh một điều đó là nếu tạm thời xem Vô Minh là cội nguồn của tất cả các Duyên Khởi còn lại thì bản thân Vô Minh cũng có duyên khởi của nó chứ không phải là không có. Vậy thì duyên khởi của Vô Minh chính là các pháp lậu hoặc. Nếu chúng ta phân tích chi pháp của từng pháp lậu hoặc thì rõ ràng ở đây lại lặp lại một chùm lẩn quẩn nữa, tức là chính Vô Minh tạo ra Hành, Hành tạo Danh Sắc, Danh Sắc duyên Lục Nhập, Lục Nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái. Nhưng mà ngay trong lậu hoặc đã có Ái, ngay trong lậu hoặc đã có dấu vết của những quả Vô Minh đời sau. Ví dụ Vô Minh duyên Hành đi qua nhiều chặn như vậy mới đến Ái nhưng mà cội nguồn tạo ra Vô Minh cũng có Ái trong đó; nên bản thân Vô Minh nói một cách dễ nhớ dễ hiểu thì bản thân Vô Minh tạo ra Ái nhưng cũng là kết quả của Ái; vừa là nhân tạo ra Ái cũng vừa là quả của Ái. Đó là 1 cách nói, một cách nói khác nữa, Vô Minh là kết quả của Lậu Hoặc mà đồng thời nó cũng tạo ra 1 dòng Duyên Khởi trong đó có lậu hoặc. Như vậy lậu hoặc tạo ra Vô Minh mà Vô Minh cũng dẫn đến Lậu Hoặc. Cho nên, ở đây Vô Minh được Ngài Xá Lợi Phất kể ra một điều rất là quan trọng, Ngài nói rằng một vị thánh đệ tử hiểu rõ Vô Minh là gì, hiểu rõ con đường nào dẫn đến Vô Minh, hiểu rõ cứu cánh nào chấm dứt Vô Minh và hiểu rõ con đường nào dẫn đến cứu cánh đó. Tức là ở đây Ngài nắm ta dắt chúng ta vào trong vòng lẩn quẩn đó nhưng Ngài nói cho chúng ta biết Vô Minh tạo ra một nùi duyên khởi đằng sau nhưng bản thân Vô Minh cũng là quả của quá khứ và cứ như vậy; quá khứ tạo ra hiện tại, hiện tại tạo ra tương lai, nó cứ đi vòng vòng như vậy. Thì ở đây vị thánh đệ tử hiểu được cái chữ Vô Minh - Avijja một chữ này thôi qua khía cạnh Tứ Đế như vậy đó thì cũng gọi là vị thành tựu Chánh Tri Kiến, mà ở đâu có Chánh Tri Kiến thì có Chánh Trí, mà ở đâu có Chánh Trí thì ở đó có Chánh Giải Thoát. Tiếp theo, Ngài mới trình bày về Lậu Hoặc, thế nào là Lậu Hoặc? Như chúng tôi vừa trình bày khi nãy, có rất nhiều trường hợp, nhiều bài kinh Đức Phật và chư Tăng dạy Lậu Hoặc có 4 Dục Lậu. Lậu nãy giờ chúng tôi chưa trình bày để đến đây chúng tôi mới trình bày, Lậu có tiếng Pali là asava tức nghĩa là thấm, rịn, rò, rỉ, chảy, dột, lan ra.. thì được gọi là lậu, như chữ Hán gọi "ốc lậu" là nhà dột, các vị hãy tưởng tượng Đức Phật từng gọi thân tâm của chúng ta như một ngôi nhà vậy đó, nhà mà xài không được, hoặc là cái thân này như bè hay thuyền mà thuyền bè bị rò rỉ, nước thấm vào thì nó không chạy được. Thì dù như thế nào chúng sanh trên đời này bị các phiền não làm thấm, rịn rò rỉ từ bên trong; dục lậu tức là sự rò rỉ, thấm đẫm của lòng đam mê với 5 cảnh dục, Hữu Lậu tức là sự thấm đẫm, sự rò rỉ, sự dột nát của lòng mong mỏi tái sanh kiếp khác, đó là Hữu Lậu, còn Tà Kiến Lậu là sự đắm đuối, thấm đẫm trong tà kiến mà nói cho gọn là 2 tà kiến cơ bản là Thường Kiến và Đoạn Kiến, còn nói rộng là 62 Tà Kiến mà chúng ta có dịp nghe qua ở bài kinh Phạm Võng. Cái thứ tư là Vô Minh Lậu, nói gọn theo chi pháp là sở hữu Si, còn nói cách rộng rãi là sự bất tri với giáo lý Tứ Đế, tức là không biết Khổ là gì, không biết cội nguồn nào dẫn đến đau khổ , không biết cưú cánh nào chấm dứt đau khổ và không biết con đường nào dẫn đến cứu cánh đó. Thì sự không hiểu biết về Tứ Diệu Đế được gọi là Vô Minh; thì chính Vô Minh đó, cái Si đó gọi theo từ nôm na là ngu si, ngu xuẩn mà cái ngu của thế thường, người đời nói đến chữ ngu hay dốt thì mình cũng hiểu ngầm là không có nghề nghiệp gì, hoặc là không có kiến thức gì, hoặc là trong những sinh hoạt đời thường khờ khạo, chậm lục không có theo kịp ai thì được gọi là ngu si hay là dốt nát... Nhưng riêng trong tinh thần chánh pháp chữ ngu si hay dốt nát không được định nghĩa như vậy mà được định nghĩa là những ai không hiểu được lý Tứ Diệu Đế một cách tới nơi tới chốn thì cũng được gọi là người vô minh hay ngu thì cái chữ vô minh ở đây chỉ cho người không hiểu Tứ Diệu Đế; mà đối với một người mà lâu ngày, nhiều đời, nhiều kiếp không có hiểu biết như vậy thì nó sẽ là cội nguồn dẫn đến sự rò rỉ nội tâm làm cho các cái thứ phiền não khác nó tha hồ sinh sôi nảy nở trong đó. Trong một ngôi nhà mà dột, dột ít ít còn đỡ chứ dột thâm niên thì coi như meo mốc, người ở không được, nhà của meo mốc cây cối, bàn ghế trong nhà bị mục, bị nát.. chữ lậu có nghĩa là thấm đẫm, rò rỉ có nghĩa là như vậy đó. Ngài Xá Lợi Phất Ngài nói rằng, cái cội nguồn của dòng sinh tử luân hồi này chính là Vô Minh mà Vô Minh cũng có cội nguồn khác nữa đó chính là Lậu Hoặc. Như chúng tôi vừa trình bày, Lậu Hoặc cũng có Tham Ái, Tà Kiến trong đó mà Tham Ái, Tà Kiến nó vừa là nhân tạo ra Vô Minh mà nó cũng là quả tạo ra từ Vô Minh. Ví dụ như Lục Căn của mình đời này là do quả của Lục Căn đời trước, do Vô Minh, Tham Ái, Ngã Mạn đời trước nó tạo ra tấm thân này, nó tạo ra Lục Căn này. Nhưng đời này, chúng ta vẫn không thức tỉnh tu hành, vẫn không thể trở thành thánh nhân ngay trong đời này thì những Tham, Sân, Si (Vô Minh), Ngã Mạn, Tà Kiến đời này sẽ tiếp tục tạo ra một hình hài khác, một cái thân tâm, một Ngũ Uẩn, một Lục Căn khác ở kiếp sau; như vậy đó là cái vòng luẩn quẩn sanh tử. Ngài Xá Lợi Phất Ngài mới lấy ra từng điều, Ngài nói nếu trường hợp một người hiểu rõ cái Thiện là gì thì đó cũng là Chánh Tri Kiến, một người hiểu rõ "ăn" là gì ăn theo định nghĩa của Đạo Phật thì cũng là Chánh Tri Kiến, một người hiểu rõ sanh là gì, già là gì, chết là gì mà hiểu rõ mỗi vấn đề theo 4 khía cạnh của Tứ Đế, hiểu rõ bản thân nó là gì, cội nguồn nào dẫn ra nó, cứu cánh nào chấm dứt nó và con đường dẫn đến cứu cánh đó. Cứ mỗi vấn đề như vậy thì vị thánh đệ tử hiểu trên 4 khía cạnh thì được gọi là Chánh Tri Kiến. Ngài dẫn mình đi từng bước, hiểu rõ thế nào là Tham Ái, thế nào là Tứ Thủ, thế nào là 6 Hữu, thế nào là Vô Minh, thế nào là Lậu Hoặc. Lậu Hoặc mà chúng tôi vừa trình bày nó là một cái mắc xích tạo nên cái vòng tròn luân hồi của chúng ta. Vị thánh đệ tử hiểu rõ Lậu Hoặc là gì, tập khởi Lậu Hoặc là gì, tập khởi Lậu Hoặc là Vô Minh. Như chúng tôi vừa trình bày, cái ngu của đời trước nó tạo ra Lậu Hoặc đời này và Lậu Hoặc đời này nó sẽ tạo ra Vô Minh đời kế tiếp; Vô Minh đời kế tiếp lại tạo ra Lậu Hoặc...mấy cái đó cứ tạo ra tạo lại lẫn nhau nhân tức quả, quả tức là nhân và vị thánh đệ tử hiểu rõ điều này mới được gọi là người có Chánh Tri Kiến. Người có Chánh Tri Kiến thì mới có Chánh Trí mà có Chánh Trí thì mới có Chánh Giải Thoát. Một hành giả khi tu tập Tứ Niệm Xứ, mắt thấy cảnh sắc, tai thấy tiếng mà khởi tâm tham đắm thì vị đó cũng có nhiều cách quán với tự lòng mình đây là Lậu Hoặc, đây là Dục Lậu, đây là Kiến Lậu, Vô Minh Lậu...cái suy nghĩ đó mới đầu chỉ là dựa theo kiến thức học được từ sách vở hoặc là học được từ lời giảng của quý Thầy, quý Cô hoặc bạn Phật tử mà thôi. Nhưng mà đối với một hành giả Tứ Niệm Xứ có cái công phu, có khổ luyện trong quá trình khổ luyện tỉnh giác thì bản thân hành giả mới có thể hiểu rõ những điều mà Ngài Xá Lợi Phất xem là những vấn đề quan trọng và tách riêng ra giảng trong bài Kinh Chánh Tri Kiến này. Có tu tập Tứ Niệm Xứ chúng ta mới thấy rõ tại sao Ngài nhắc riêng ra cái già, cái chết, cái sanh, cái Lậu Hoặc để mà nói. Nhiều khi chúng ta tu Tứ Niệm Xứ chúng ta tu 1 năm, 2 năm, 10 năm, 40 năm mà nhiều khi có những vấn đề mà chúng ta vẫn xem thường, nhưng đột nhiên đến lúc nào đó chúng ta như là thấm thía, đại ngộ nhưng nó chỉ là vấn đề rất bình thường thôi, chỉ là một chữ thôi, tu thiền 20 chục năm đầu mình chỉ lo mình ngẫm thân quán cái này, thọ quá cái kia, tâm quán cái nọ là Tứ Niệm Xứ nhưng chỉ một lúc nào đó trong cuộc tu của mình có thể là trong đời sống của hành giả chuyên tu Niệm Xứ hoặc trong đời sống một học giả chuyên về tam tạng mấy chục năm như vậy bỗng một ngày, một đêm, một buổi chiều, một buổi khuya nào đó, một buổi ăn nào đó hoặc một lần nào đó mình cầm khăn mình đi tắm, cái mình hiểu tận cùng được chữ "Sanh", hiểu tận cùng được chữ "Lão, Tử", hiểu được tận cùng thế nào là Lậu Hoặc, thế nào là Vô Minh, thế nào là Thủ, Ái, Hữu, Thọ, Tưởng.. chính nhờ những bài kinh này nè, ta có cái vốn liếng để chi? để trong những lúc đối diện với vấn đề tế toái trong cuộc tu chúng ta mới có dịp giác ngộ. Còn nếu như chúng ta thấy, cái này Ngài dư hơi Ngài nói vậy thôi chứ đâu có gì quan trọng; cái già, đau, chết ai mà không hiểu. Đúng ai cũng hiểu nhưng mà hiểu không tới nơi tới chốn. Tôi nhớ Ngài Bạch Cư Dị, một trong những nhà thơ của Trung Hoa vào đời Đường; thì có lần ông lớn tuổi rồi, ông đi vào Chùa ông gặp một vị Hoà Thượng ông mởi hỏi "tôi bây giờ tôi lớn tuổi lắm rồi, Hoà Thượng có thể dạy cho tôi một pháp môn nào ngắn gọn mà bao hàm Phật Pháp hay không? Mà tôi xin nói rõ là tôi lớn tuổi lắm rồi, tôi không có nhớ nhiều". Vị Hoà Thượng nheo mắt, gật gù và nói "Pháp nói gọn chỉ có 3 điều thôi; không làm các điều ác - chỉ làm các điều lành- giữ gìn tâm trong sạch - đó lời chư Phật dạy". Ông Bạch Cư Dị là một nhà thơ lớn, ông đọc sách rộng nên ông nghe vậy ông vừa mắc cười mà ông vừa tự ái. Mắc cười là vì ông Hoà Thượng coi mình không ra gì, tự ái là vì ông là người đọc rộng mà Hoà Thượng lại đem những câu rất là phổ biến, phổ thông ra giảng. Cũng giống mình dạy Đại Học mà mình vô mình nói chuyện với ông thầy đồ là mình đã nể ổng lắm rồi mà đằng này ổng lại dạy mình những câu "nhân chi sơ tính bổn thiện", tánh tương cận, tập tương viễn", "thiện ác đáo đầu chung hữu báo"...mình giận quá giận đi, bởi vì ổng coi mình không ra gì hết. Ông Bạch Cư Dị ông nghe xong ông cười khẩy nói "con nít 3 tuổi cũng biết"; thì vị Hoà Thượng cười "đúng rồi những điều đó con nít 3 tuổi cũng biết nhưng mà ông già 300 tuổi chưa chắc làm được nên tôi mới đi nói cho ông nghe". Vậy thì, chúng ta thấy ở đây cũng vậy, hồi 15 -17 tuổi chúng tôi đọc cái này, chúng tôi thấy có vẻ Ngài Xá Lợi Phất quan trọng hoá vấn đề, Ngài xem Chư Tăng trong hội chúng hơi trẻ vì sanh, già, đau, chết đâu có gì nhưng mà.. khi mà ở tuổi này khi chúng ta xem lại chúng ta thấy rằng trong đời tu của mình nhiều khi mình thấm thía một chữ "sanh", một chữ "già", một chữ "đau", một chữ "chết", một chữ "tham/sân/si/phiền não"... một chữ mà thôi cũng đủ để tìm thấy cho mình một hướng đi, một sự tịnh lạc cho lòng mình rồi. Đêm nay, như chúng tôi vừa trình bày, chúng ta giải quyết cho xong cái phần kết của Tri Kiến mà chúng tôi vừa trình bày xong mà ở đây chúng tôi chỉ làm một chuyện là ôn lại cho các vị thôi. Trong bài Kinh này, Ngài Xá Lợi Phất Ngài định nghĩa thế nào là Chánh Tri Kiến và Ngài đem ra từng vấn đề, có những vấn đề mới nghe qua mình thấy rất là quan trọng, nhưng có những vấn đề mình nghe không là cái gì hết nhưng Ngài nói rằng nếu hiểu tới nơi tới chốn những vấn đề đó thì cũng được gọi là Chánh Tri Kiến và đã có Chánh Tri Kiến thì mới có hy vọng đạt tới giải thoát. Ở đây, Ngài phân tích rõ thế nào là hiểu tới nơi tới chốn những vấn đề mà Ngài nêu ra. Chúng tôi nhắc lại, hy vọng quý Phật tử hiểu rõ từng điều nãy giờ hoặc là từ mấy hôm nay mà chúng tôi trình bày, quý vị có thể xem thẳng ở trong chánh Kinh, trong từng điều đó Ngài Xá Lợi Phất Ngài nhấn mạnh cho mình, hiểu đến nơi đến chốn từng điều đó có nghĩa là hiểu vấn đề qua 4 khía cạnh của Tứ Diệu Đế. Chúng tôi biết có một số quý vị nghĩ chắc chúng tôi già rồi lẩn thẩn, nhưng nhắc lại không có thừa đâu, như chữ "già" hoặc chữ "sanh" thì ở đây chúng ta cũng phải nhìn qua 4 khía cạnh, già là gì, con đường nào dẫn đến già, cứu cánh nào thật sự vắng mặt già và con đường nào dẫn đến cứu cánh đó. Mỗi một vấn đề như vậy, hiểu qua 4 khía cạnh như vậy mới được xem là hiểu thấu đáo, trọn vẹn theo đúng tinh thần Chánh Pháp. Còn mình hiểu lang man thiên địa theo cái hiểu của mình rồi mình trích dẫn nào là danh ngôn, cổ tích, chuyện nào, chuyện kia trong kinh, sách này sách kia...nhưng không hiểu theo chỉ dẫn của Ngài Xá Lợi Phất thì mình không thể nào có được Chánh Tri Kiến cả. Đó là con đường dẫn đến giác ngộ, đến đạo quả thánh nhân. Chúng tôi hy vọng rằng, nay mai khi nghiên cứu bài Tiểu Phương Quảng và Đại Phương Quảng thì các vị sẽ có dịp quay lại những vấn đề trong bài Kinh số 9 này; và điều quan trọng là hy vọng lúc đó các vị vẫn không quên bài Kinh này để chúng ta tìm thấy các điểm giữa các bài Kinh, các vị sẽ rất lấy làm thú vị khi làm một so sánh giữ các bài Kinh. Bây giờ, nếu mình còn bận rộn vợ con cha mẹ, mình không có dịp để mà nghiên cứu Kinh điển thì mình nghe giảng bài nào nào cũng vậy thôi, mình nghe bài nào cũng vậy thôi, mình nghe băng cassette Kinh nào cũng vậy thôi..nhưng chúng tôi nghĩ rằng nếu một ngày nào đó nếu các vị có cơ duyên đi tu tập một mình hay ở các Thiền viện thì lúc đó các vị thấy rằng những bài Kinh như Chánh Tri Kiến hay những bài Đại Phương Quảng, Tiểu Phương Quảng chắc chắn là những hành trang không thể thếu cho hành giả Tứ Niệm Xứ nếu chúng ta thấy được rằng Tứ Niệm Xứ là con đường sau cùng cho con đường sanh tử giữa cuộc đời này. Chúng tôi cũng hy vọng rằng một ngày nào đó, các vị cho dù không có khả năng nghiên cứu tam tạng Kinh điển cùng với các sớ giải nhưng mà nắm được những yếu lý căn bản của bài Kinh này thì trong đời sống hiện tại cũng tránh đi được những nghi hoặc về chánh pháp. Đồng thời trong đời sống tu thiền chúng ta cũng không đến nỗi bị vướng mắc vào những chướng ngại không cần thiết. Dù sao đi nữa đây cũng là một bài pháp và đêm nay chúng tôi đi nghỉ sớm là bởi vì sáng mai chúng tôi phải đi sớm rồi và có lẽ đến chiều thứ Hai chúng tôi mới có dịp gặp quý vị lần nữa ở trên Phạm Gia Trang này. Trước khi dứt lời, xin thành tâm chia sẻ công đức phước thí này đến tất cả chúng sinh ba giới bốn loài ngũ thú lục đạo, tất cả các vị long thần hộ pháp sau khi nhận lãnh phước báu này xin hộ trì cho tất cả chúng ta ở đây vạn sự kiết tường, sở cầu như nguyện, có điều kiện tu hành tốt đẹp. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Mật mã / Password: