<blockquote>Kalama tri ân bạn ghi chép.</blockquote>
toaikhanh.com
Sửa bài / Editing: Kinh Puṇṇiya
Kinh Puṇṇiya [13/10/2025 - 08:40 - anhlibrary] Thưa với đại chúng, Việt Nam đặc biệt là miền Bắc đang trải qua một cái mùa bão lũ rất là kinh hoàng, có thể là kinh hoàng nhất trong rất rất là nhiều năm trở lại đây, nước nó tràn về là phải nói là ở cái mức gọi là không tưởng, không biết ở đâu mà nó về nhiều như vậy. Ấy vậy mà, ấy vậy mà có rất nhiều cái khu vực trên cái đất nước Việt Nam hiện giờ vẫn tiếp tục khô cằn, vẫn tiếp tục khô cằn, đặc biệt là bà con ở miền Đông Nam bộ hay là Tây nguyên thì chắc chắn có những vùng rất là khô cằn. Và ngay trên đất Bắc thì mình thấy Hà Giang, Đồng Văn, Mèo vạc, bà con làm rẫy ở trên núi nước phải...tranh thủ từng cơn mưa, từng cái máng nước dẫn để có đủ nước để mà trồng trọt, canh tác. Tôi muốn nói cái gì? Tôi muốn nói rằng ánh nắng mỗi ngày nó chang hòa trên khắp mặt đất nhưng mà có rất nhiều nơi trên trái đất này vào ngay cái thời điểm đó thì nó không có nắng, nó nằm trong khu vực bán cầu còn lại tối mịt hoặc là ngay trên cái bán cầu mà chan hòa ánh nắng đó nó có những cái giếng sâu, có những cái hầm tối mà nắng nó vào không tới. Bà con muốn biết tôi muốn nói cái gì? nhẹ nhàng nhất ngay trên sa mạc, thì bên dưới cái gầm xe đó, nắng nó xuống không tới. Ngay trên sa mạc thì bên dưới cái gầm xe đó, nắng xuống không tới. Thì Chư Phật cũng vậy, chư Phật giống như là dưỡng khí, chư Phật giống như ánh nắng vậy đó. Khi các Ngài ra đời thì Trí tuệ và cái lòng Đại bi của các Ngài thì không có cái ngóc ngách nào mà không có chiếu rọi tới, không có một cái ngóc ngách nào mà cái lòng Đại bi của Chư Phật không có chan hòa, không có chạm tới, không có. Tuyệt đối không có, không có một cái góc riêng nào dưới cái gầm trời của một Phật sát gồm tam thiên, đại thiên thế giới mà Chư Phật không nghĩ đến và không có ban rãi lòng Đại bi, không có, nguyên một cái Phật sát. Phật sát là một khu vực hoằng pháp của một Đức Phật. Như trái đất mình nó có 1 mặt trăng, 1 mặt trời, 1 sao Kim, 1 sao Hỏa thì 9 cái vệ tinh này, 9 cái thiên thể này cộng lại là một Thái Dương hệ, mà: - 1000 cái Thái dương hệ như vậy nó làm thành một Tiểu thiên thế giới. - 1000 Tiểu Thiên thế giới nó làm thành một cái Trung Thiên thế giới. - 1000 Trung Thiên thế giới nó làm thành một Đại Thiên thế giới. - Mà 10.000 cái Đại Thiên thế giới như vậy nó làm thành một cái Phật sát. Chữ Sát (kṣetra) đây không phải là giết mà Sát đây có nghĩa là zone, là area, là khu vực, region, một khu vực hoằng pháp, một địa bàn hoằng pháp của một Đức Phật, mênh mông lắm, không có một cái ngóc ngách nào, một cái góc tối nào, một cái góc khuất, góc tù nào mà cái lòng Đại bi và Trí tuệ của Chư Phật không có soi rọi tới. Tuy nhiên, tuy nhiên tại sao đó, phải sao đó, phải là có túc duyên giải thoát nhiều đời, rồi huynh hướng tâm lý, chán sợ sinh tử, chán sợ hiện hữu rồi cộng với cái môi trường sống. Môi trường ở đây gồm có chuyện ở đâu? Và thường gặp ai? Thường làm việc gì? Ba cái này cộng lại gọi là môi trường. Tùy thuộc vào ba cái này mà chúng ta có được gặp Phật hay không? và khi gặp Phật là mình có lắng nghe hay không? xét về cái mặt là Đại bi của Đức Phật. Xét trên mặt Đại bi thì đúng là Đức Phật không có phân biệt một chúng sinh nào, không có. Nhưng mà Trí tuệ của Đức Phật thì lại soi rọi rất rõ, chúng sanh nào có thể độ được và chúng sanh nào không thể độ được. Cho nên trong 10 cái hồng danh của Ngài, có một cái hồng danh là Purisa-dammasārathi. - Damma có nghĩa thuần thục, lão luyện. - Còn sārathi là cái người đánh xe, xe bò, xe ngựa nói chung gọi là sārathi. - Mà dammasārathi là cái người mà đánh xe thiện nghệ, lành nghề, lão luyện. Mà phía trước có chữ Purisa là sao? Có nghĩa là xưa giờ, cái người ta đánh xe, người ta chỉ điều khiển con bò, con ngựa thôi, nhưng mà Ngài thì Purisa-dammasārathi. - Purisa đây có nghĩa là nhân thiên chứ không phải là con người nha, là nhân thiên. Có nghĩa là Ngài có khả năng, Ngài hỗ trợ, giúp sức, gợi ý, dạy dỗ, giáo huấn cho những người hữu duyên. Cái khả năng này chỉ có Chư Phật là 100%. Còn cái vị đại trí như Ngài Xá Lợi Phất thì không thể nào sánh bằng, Ngài Xá Lợi Phất cũng rất là xuất sắc trong cái vụ mà quan sát cái Tâm cơ, Tâm địa của một người để mà thuyết pháp cho khế cơ, khế lý, khế căn, Ngài Xá Lợi Phất có khả năng đó, có. Sau Ngài Xá Lợi Phất là Ngài Mục Kiền Liên, nhưng mà hai vị đại đệ tử này không có bì được với vị Đạo sư, tức là Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Có một điều là cái khả năng của Đức Phật như vậy đó, cái lòng Đại bi của Đức Phật như vậy đó nhưng mà không cách nào mà độ được người vô duyên, như tôi đã nói rất là nhiều lần: Phật Trí vô biên. Phật Lực vô cùng. Phật Tâm vô lượng Nhưng mà ba cái Vô này cộng lại, không có độ được, không có lay chuyển được cái người vô duyên, vô phúc. Không có một cái căn lành giác ngộ thì chư Phật có ra đời bao nhiêu vị đi nữa cũng không có độ được cái người mà thiếu cái duyên lành giải thoát, nhớ cái đó. Cho nên trong bài Kinh này Đức Phật dạy rất rõ, dạy rất rõ là không phải lúc nào Ngài cũng thuyết Pháp cho cái người gặp gỡ Ngài. Trong này xác định rất rõ, không phải là cái trường hợp nào mà Đức Thế Tôn thuyết Pháp và trường hợp nào Thế Tôn im lặng không thuyết Pháp. Chúng ta biết rằng có những Pháp hội của Thế Tôn có hàng ngàn người chứng đạo. Một Pháp hội thì mình nói theo cái thời gian của mình bây giờ khoảng tầm 45 phút hay 1 tiếng, thì Ngài độ được hàng ngàn người gồm Chư thiên và nhân loại. Nhưng mà trong Kinh nói có lúc 3 tháng trời, tức là 90 ngày mà không có được một người đủ duyên để mà đắc đạo. Cho nên trong những trường hợp đó, Đức Thế Tôn, Ngài...trong Kinh nói Thế Tôn thường chọn cái cách nghĩ dưỡng bằng cách là vào một cái chỗ xa khuất, một chỗ xa khuất, không có đi khất thực luôn, và chính những người cư sĩ lớn sẽ sắp xếp để mà đem cơm đến cho Ngài, cúng dường cho Phật suốt 3 tháng, 90 ngày như vậy. Thì mình thấy rằng: Phật Lực thì vô biên. Phật Trí thì vô cùng. Phật Tâm thì vô lượng. Ai Ngài cũng thương hết, nói vậy chưa có đủ mà phải nói rằng Ngài thương không có phân biệt, từ cái người muốn giết Ngài hay là cái người sẳn sàng chết vì Ngài thì Ngài đều nhìn bằng một cái ánh mắt độ lượng và Đại bi như là một người mẹ mà nhìn hai đứa con, đứa giỏi, đứa dở vậy đó, đứa tỉnh, đứa bị khùng vậy đó, giống vậy đó, đứa nào cũng là con hết. Phật ái chúng sinh như mẫu ái tử. Phật thương chúng sinh đến cái nước như vậy mà còn ghê hơn nữa, bởi vì mẹ có lúc có giận con, có lúc làm cho con đau, có lúc làm cho con khóc thậm chí cũng có trường hợp mẹ vì ai đó mà mẹ bớt thương con, có trường hợp đó, nhưng mà Phật thì không. Đã là Phật rồi thì không có một cái lý do nào mà bớt thương chúng sinh, và cũng không có lý do nào để mà phân biệt trong cái chuyện đối xử với chúng sinh, không có. Ngài ngó vô cái duyên người đó mà Ngài làm việc. Ngài nhìn vô cái duyên người đó mà Ngài làm việc. Thì bài Kinh này nói cái gì? bài Kinh này xác định cho chúng ta một điều là Đại bi, Đại Trí như Thế Tôn như vậy đó, trời biển như vậy đó, như thái hư, như càn khôn vũ trụ như vậy đó, nhưng mà không phải lúc nào người gặp được Ngài cũng được nghe Pháp, là vì sao vậy? vì cái Tâm cơ của họ. - Cơ là cái nền không có vững, nó không được thiết lập trên cái nền tảng lý tưởng giải thoát. - Còn cái Tâm địa của họ, là cái cõi đất Tâm của họ nó thiếu các hạt giống Bồ đề, nó mọc tùm lum hết nhưng mà nó không có cái chủng tử Bồ đề, thì Chư Phật không có làm được cái gì hết. Bởi vì nếu mà nói rằng chư Phật có Đại Bi, Đại Trí có thể vận dụng vô lượng phương tiện để tế độ tất cả chúng sinh thì chúng ta phải nói sao đây về trường hợp chúng ta, giờ này chúng ta còn ngồi ở đây nguyên vẹn không sót một người, chúng ta ngồi ở đây, nếu mà các Ngài có thể độ được là vô lượng Phật quá khứ đã độ mình rồi, nhưng mà mình lèn èn kiểu gì đó. Có 2 cách mà để cho bây giờ mình còn: 1/ Là thiếu duyên giác ngộ nên còn sót lại đến bây giờ. 2/ Còn cái thứ hai, hiếm đó là chúng ta đã trót mang nguyện lớn, trót mang nguyện lớn. Chẳng hạn như trong room này mình không biết ai là người đã từng có đại nguyện trở thành Phật tổ Như lai, ai có đại nguyện trở thành đệ nhất, đệ nhị thượng thủ Thinh văn, Độc giác. Rồi Đại Thinh văn có những biệt hạnh thù thắng nào đó mình không biết thì khi mình có một đại nguyện như vậy thì mình nhiều khi tu hành dữ dội lắm, nhưng mà chưa đến lúc cái đại nguyện đó viên thành thì mình phải chờ. Thí dụ như kiếp xưa mình từng tu tập rất là nhiều hạnh lành, nhưng mà mình nguyện chỉ đắc đạo khi mà trở thành cái vị Đệ nhất Thinh văn, Đệ nhất Trí tuệ của một vị Phật nào đó. Mà Phật Thích Ca thì đã có Ngài Xá Lợi Phất rồi, coi như mình lỡ chuyến đò, rồi mình muốn trở thành một vị thị giả hầu cận một Đức Phật nào đó. Mà đời Phật Thích Ca thì có Ngài A Nan rồi. Rồi đến đời Phật Di Lạc nếu mà mình không phải là những nhân vật đó thì tiếp tục mình lại chờ sang một chuyện đó khác. Cho nên nó có trường hợp cái người đó không đắc là vì họ lỡ cái chuyến đò về cái bến bờ mà họ muốn, chứ còn cái hành trang, cái tư lương của họ nhiều lắm rồi, nhiều lắm. Ai đi máy bay thì biết, dù mình giàu cách mấy nhưng mà chưa đến cái chuyến bay mà đưa mình về cái nơi mình muốn thì phải delay, phải chờ ở phi trường. Mình chờ không phải vì mình nghèo, không phải, không phải mình không có đủ tiền mua vé, không phải, nhưng tại nó chưa đến cái chuyến mà mình đi, thế là chờ, chỉ có trường hợp đó. Chỉ có hai trường hợp đó thôi. - Một là chưa đủ duyên lành. - Hai đó là do cái nguyện lớn nào đó. Thì trong Kinh mới kể thêm cái duyên lành đây nó có hai trường hợp, trong chú giải Kinh gọi là Kandaraka. Kinh Kandaraka số 16 của Trung Bộ, chú giải có nói thế này: một người có đủ duyên lành rồi mà vẫn có thể bị trễ đò là vì 2 lý do khác nữa. 1/ Cái lý do thứ nhất là do cái nghiệp tức là phiền não cũng đúng, mà nghiệp cũng đúng. Tức là do họ tạo một cái trọng nghiệp nào đó, họ có một cái phiền não nào đó quá mãnh liệt, gọi là nhân bất thiện đi, như là ông Đề Bà Đạt Đa ông tạo một cái nghiệp nào đó lớn quá, ông A Xà Thế, họ đủ duyên đắc đạo đó, nhưng mà do tạo cái nghiệp lớn quá, cho nên nó ngăn trở. Thí dụ như vị Tỳ kheo mà phạm bất cộng trụ là cái duyên lành Ba la mật nó không giúp cho vị đó đắc thiền, đắc đạo được hoặc là một người cư sĩ mà phạm vào cái ngũ nghịch đại tội cũng không thể đắc thiền, đắc đạo được. Đó là nói trên Luật, nguyên tắc. Trong thực tế thì không phải chỉ có hai trường hợp đó đâu, mà còn nhiều khi còn xúc phạm Thánh hiền, tuy nó không có phải là ngũ nghịch đại tội nhưng mà cái tâm lực mà lúc mình làm cái chuyện bất thiện đó nó quá mạnh đi, hoặc là bất hiếu mẹ cha, mặc dù mình chưa đến nổi sát hại song thân, nhưng mà do bất hiếu mẹ cha mà bằng một cái tâm bất hiếu quá mãnh liệt, nó cũng thành một cái thứ trọng nghiệp nó ngăn trở. Cho nên trong chú giải có xài một cái chữ là Tiracchana. - Tira: có nghĩa là ngang. - Cchana có nghĩa là chặn. Tiracchana có nghĩa là chặn ngang. Chữ này có hai nghĩa: - Nghĩa một là nó ám chỉ cho tất cả các cái loài động vật, ngoài con người và chư thiên. Thí dụ từ con vi sinh, thủy sinh loi nhoi, lúc nhúc ở trong cống rảnh, giun dế cho đến cá nhà táng cho đến Long vương cũng đều xếp trong hàng Tiracchana đó. Có nghĩa là bản thân cái chúng sanh này đã bị ngăn chặn cái khả năng đắc thiền, đắc đạo do cái tâm đầu thai bằng Tâm Quả bất thiện. Cái hạng này được gọi là Tiracchana, nghĩa rộng như vậy. - Nhưng mà trường hợp thứ hai, Tiracchana còn chỉ cho những người mà đầu thai bằng Tâm OK, cái Tâm mà có thể đắc đạo được nhưng mà họ lại tạo một cái trọng nghiệp chẳng hạn như Tỳ kheo phạm trọng giới hoặc là cư sĩ phạm trọng nghiệp như mấy cái trọng nghiệp mà hồi nãy tôi mới nói, thì những người này cũng được gọi là Tiracchana, có nghĩa là bàng sinh. Bàng có nghĩa là ngang, bàng đây cũng có nghĩa là ở ngoài ngõ không có mắc mớ gì trong nội bộ, như bàng quan, kẻ bàng quan, ngoại cuộc. Bàng quan đây cũng như là bàng môn tả đạo, bàng ở ngoài cửa chứ không phải trong chánh đạo. Bàng là bên cạnh, ngoài ngõ, bàng có “g” bàng môn tà đạo. Thì là trường hợp một là đủ duyên lành mà không đắc là bởi vì do bị cản trở đó. Trường hợp hai là do bận rộn. Cái này tiếc à, có nghĩa là duyên lành thì đủ nhưng do mình bị cuốn vào một cái nhịp sinh hoạt, dòng chảy hoạt động mà nó quá là bận rộn thì mình....Chẳng hạn như bản thân cái ông thanh niên Pessa đến hỏi Phật, ông là đủ duyên lành đắc sơ quả, đủ. Nhưng mà do ông quá bận rộn. Cho nên ông không có thì giờ để mà ổng nghiền ngẫm, thấm thía, thẩm thấu, thấu cảm, chứng nghiệm được Phật Pháp, cho nên là cuối cùng ông cũng lỡ dịp. Nói nó hơi lạc đề một chút nhưng mà nó lạc đề nhưng mà nó cũng có liên quan đến vấn đề của bài Kinh mình đang học. Tôi chốt lại, trên thế giới trong khi có rất nhiều những chỗ nước tràn trề ấy vậy mà có những chỗ khô cằn, nước tới không được, trên thế giới là đúng cái vào thời điểm cái bán cầu đó nó đang là ban ngày, thì ánh nắng nó chan hòa, nhưng mà vẫn có những chỗ ánh nắng nó tới không được. Chư Phật ra đời, Đại Bi, Đại Trí lan tỏa, không có phân biệt nơi chốn, không có chỗ nào mà nằm ngoài cái Đại Bi, Đại Trí của Chư Phật hết. Nhưng mà vấn đề là cái Tâm cơ, và cái Tâm địa của mình nó có sẳn sàng để đón nhận được cái lời dạy của Chư Phật hay không? mình có đủ duyên lành để mình gặp gỡ hay không? cái này mới mệt, cái này mệt. Cho nên bài Kinh này nó không chỉ đơn giản nói cái chuyện đó đâu, nó còn nói đến cái chuyện đằng sau đó nữa. Có nghĩa là mình phải có những cái Tâm nguyện, có những cái sở Hạnh. Bên Tịnh độ họ gọi là TÍN, HẠNH, NGUYỆN, phải có cái Chánh Tín, Chánh hạnh và có cái Chánh Nguyện, phải có cái Chánh mới được. Phải có cái niềm tin đúng đắn, sắt son vào Chánh Pháp, vào cái cứu cánh giải thoát, vào cái thiện, vào cái lành. Đó là niềm Tin, là Chánh Tín. Còn cái Chánh hạnh, là mình chỉ Tin không thôi chưa đủ, mình phải có những cái công đức, những hạnh lành, những cái hành động, những cái hoạt động cụ thể để mà bồi dưỡng cho cái đạo Tâm và cái công đức. Đạo Tâm khác, mà Công đức khác. Đạo Tâm và Công đức Đạo Tâm là gì? Là mình phải nghe Pháp, phải thiền định, phải kham nhẫn như thế nào đó để mà cái Đạo Tâm của mình nó có khả năng bao dung, chịu đựng, thấu suốt, buông bỏ. Đó là Đạo Tâm. Đạo nghiệp là sao? Là ba la mật, khi mình làm chuyện bố thí nó có hai lợi ích: - Lợi ích một, chính cái việc bố thí nó mài mòn cái tánh bủn xỉn, và ích kỷ của mình đó là Đạo tâm. - Còn cái Đạo nghiệp là chính cái phước bố thí này nó trở thành ra cái nguồn đạo lực cho đời sau khi mình gặp Chư Phật dầu mình có nghèo cách mấy đi nữa nhưng cái cái Ba La Mật của mình nó cũng đủ để mà hỗ trợ tâm sinh lý cho mình trong cái giây phút đắc đạo, rồi sau đó mình chết đói nhăn răng cũng được. Nhưng mà ngay cái giây phút đắc đạo là mình phải có một tình trạng tâm sinh lý ngon lành chứ không thể nào mà suy kiệt đến mức mà quờ quạng, mê loạn là không được. Nếu là thân nhân loại phải có một sức khỏe, có thể chịu đựng sinh học nhất định để cho cái trí tuệ nó mới làm việc được. Có nhiều người đau quá, đau đớn quá, bệnh hoạn quá, máu nhiều quá đâm ra bị mê loạn, nhưng riêng cái vị có cái phước đắc đạo là không có. Trong cái giây phút mà cọp nó nhai thì chính cái 10 Ba la mật, trong đó có bố thí, có giữ giới của tiền kiếp, nó đủ để mà nó duy trì khả năng chịu đựng, khả năng sinh học của vị này, chứ còn mình, cái người bình thường chịu không nổi đâu. Mình bình thường mà bệnh quá, nghèo quá, lạnh quá, đói quá, đau quá là cái đầu mình nó làm việc không nổi, nhưng người có Ba la mật thì họ qua được cái cơn, mặc dù chỉ có 2 phút, 3 phút thôi, rồi sau đó là họ tiếp tục: - Một là họ viên tịch. - Hai là sau đó họ tiếp tục bệnh khổ như cũ, đói nghèo như cũ mà tíc tắc trong vòng 2, 3 phút đó là họ phải...thân tâm họ phải trong một cái tình trạng gọi là hoàn hảo để mà có thể chứng đắc. Bởi vì Tây nó có câu là: “đầu óc minh mẫn chỉ tồn tại trong một cái cơ thể khỏe mạnh” là chỗ đó. Chính vì cái Ba la mật đời trước nó mới hỗ trợ cho cái Tâm và cái Thân của mình được ổn định trong cái tíc tắc đắc đạo, phải đủ 30 Ba la mật, nhớ nha. Mà nếu mà mình không có TÍN, HẠNH, NGUYỆN, thì khi gặp Phật ra đời chịu thua. Có TÍN mà không có HẠNH không đủ hạnh hoặc là mình không có NGUYỆN lớn giải thoát, không có phước báo vô lậu thì không được. Cho nên mình thấy ở đây Ngài dạy rất rõ, không phải gặp ai Ngài cũng thuyết pháp. Không phải gặp ai Ngài cũng thuyết pháp. Và ở trong Trường Bộ, trong bài kệ trong Trường Bộ có hai bài Kinh Phúng Tụng và Thập Thượng. Phúng Tụng và Thập Thượng hai bài Kinh sát sườn nhau, bên cạnh nhau. Hai bài Kinh đó đều có cho mình biết một chuyện đó là có những cái gọi là...những cái, những sự lỡ dịp giác ngộ [Pali]: thời điểm, thời gian. [Pali]: là lỡ dịp không đúng thời điểm Có những trường hợp kể 8 nhưng tôi không kể 8 bà con dễ quên lắm, tôi chỉ kể gọn thôi. Tức là khi một Đức Phật ra đời mà mình lại không được mang cái thân nhân thiên, mà phải bị sa đọa làm con này, con kia hoặc là địa ngục, ngạ quỷ là thua. Đó là cái lỡ dịp thứ nhất. 8 tôi gom lại còn có 3, 4 thôi. Tức là khi chư Phật ra đời mình tái sinh vào một cái cảnh giới nào đó. Thứ hai từ khi Chư Phật ra đời mình cũng may mắn mang thân người nhưng mà là cái người bị khuyết tật, tâm thần, trì độn, thiểu năng, trì độn thiểu năng bẩm sinh, bị tâm thần, hôm nay trời nhẹ lên cao, tôi cười không hiểu vì sao tôi cười đó, cái loại đó hoặc là bị câm, đui, mù, điếc, thứ này cũng khó, khó lắm. Mặc dù mình nói tu là tu Tâm, chứ không phải tu tướng. Nhưng mà bây giờ câm, đui, mù, điếc là coi như tinh thần của mình nó cũng trục dữ dội đó, hoặc là mình giác quan đầy đủ, tàn khuyết, thiếu thốn... nhưng mình bị sâu nặng, thua. Như vậy trường hợp một là bị rơi vào cảnh giới sa đọa ngay lúc Phật ra đời. Hai là mang thân nhân loại mà bị tàn khuyết, thiếu sót ngũ quan, hoặc là về tinh thần hay là về cơ thể sinh học. - Trường hợp ba là mắc phải một cái tà kiến sâu dầy bất trị. - Rồi trường hợp bốn là phải ở một cái nơi mà không có cái ánh sáng văn minh. Các vị nghe này, các vị cũng thắc mắc ủa Phật tới được mà ta. NO. Mình ở một cái vùng mà trong Kinh gọi là biên địa thì cái não trạng của mình từ bé là nó có cái vấn đề rồi. [24:42] [13/10/2025 - 09:54 - hongtran411] [24:43] Đấy, cái thứ mà có những cái bộ tộc mà coi như trong bộ tộc có người chết, là mấy đứa còn lại nó đem đứa chết, nó đem nướng nó ăn. Thì các vị tưởng tượng cái bộ tộc như vậy đó thì làm sao mà nó có đủ cái khả năng nhận thức được. Đương nhiên với cái trí tuệ Đức Phật, ngài có thể tìm vô lượng phương tiện để xuyên thủng cái bóng tối dày đặc của đương sự. Đó là trên lý thuyết. Chứ trong thực tế, khi mà mình đã vì một cái ác nghiệp nào đó mà mình lọt vô đó, là nghĩa là mình đã vô phương cứu chữa. Rồi ngày hôm qua là đi canh tác, bắt cá, săn bắn, đốt lửa rừng rồi ăn uống với nhau. Bữa nay nó lăn ra nó chết, là cả một tông bu lại, đem cái đứa đó ra nướng ăn, coi đã không? Rồi ngay cái Indonesia bây giờ, nó cũng còn những cái bộ tộc mà mình gọi là “không có tưởng tượng được”. Có nghĩa là hễ cứ một người thân mà chết thì đàn bà ở trong bộ tộc đó bị chặt một lóng tay. Cứ một người ở trong gia đình mà bị chết là có một người đàn bà — bà vợ đó, hoặc bà mẹ nếu không có vợ thì là mẹ — phải chặt một cái lóng tay. Cho nên có nhiều bà xui, mạnh cùi cụi vậy đó, mà mấy cái ngón tay của bả cụt ngủn, trụi lủi hết. Bởi vì mấy người thân trong nhà mà đi, là bả bị chặt. Người ta mới truy dòng lịch sử và giải thích có hai lý do. Một là để ngừa, trừng. Ngày xưa có những người đàn bà ngoại tình, giết chồng, cho nên người ta mới ra quy định rất khắc khe, tàn nhẫn, vô lý, vô lối: “Anh có ngon anh giết chồng đi, chồng anh chết là anh sẽ bị chôn theo.” Dần dần họ thấy cái đó quá tàn nhẫn, nên họ không chôn theo nữa, mà chặt một cái lóng tay của người này. Để nếu người đàn bà có ý giết chồng, thì cũng phải chùn bước, sợ hãi. Bởi vì mình ở ngoài này, thế giới văn minh, thì cắt ngón tay nếu muốn, có thể cắt bằng thuốc tê, dùng gạc bông, cầm máu liền, không sao. Còn ở trong chỗ rừng sâu, núi thẳm, ma thiêng nước độc, mà chặt một cái là nguy cơ ngất xỉu rất cao, nhiễm trùng cũng rất cao. Cho nên người ta ngại lắm. Nó chặn bớt cái ác tâm của người đàn bà. Lý do thứ hai, họ chặt như vậy vì coi đàn bà là một thành viên thứ yếu của xã hội, của gia đình. Để gọi là hiến tế cho người chết, họ phải cử ra một ai đó làm vật hiến tế, thì đàn bà — là nhân vật thứ yếu — bị cử ra. Thấy giờ giết thì tội, thôi “hiến ngón tay” tượng trưng. Lý do thứ ba, là người ta chặt vậy để cho người đàn bà xấu đi, gọi là “huỷ nhan diệt dung”, làm cho nó xấu. Bởi vì mình thấy, người đẹp mà bàn tay bị cụt một hai lóng, nhìn cũng ớn. Cái ác là vậy đó. Thì nãy giờ tôi nói lạc đề, nhưng tôi muốn nói rằng có những bộ tộc nó rất là bậy bạ. Khi mình đã sanh vào trong đó, thì bản thân mình cũng phải do cái duyên nghiệp u mê ám chướng thế nào đó, mới lọt vô cái chỗ động trời như vậy. Ngay trên cái mảnh đất Việt Nam, ngay trên mảnh đất Hoa Kỳ — Hoa Kỳ nha — và Việt Nam cũng vậy, do cái nghiệp sao mà mình mới sanh vào trong những cái môi trường vùng sâu, vùng xa. Việt Nam bây giờ thì khá rồi, bây giờ có internet rồi, có tivi rồi, chứ cách đây 50 năm về trước, ở Cà Mau, ở U Minh, ở Năm Căn là thấy thua. Sóc Trăng, Vĩnh Châu, cái vùng mà người Tiều ở đó, cái vùng mà nửa Hoa nửa Khơ-me đó, là mình thấy đi đứng rất là khó, khó lắm luôn. Tôi từng tới, tôi từng đi sông Ông Đốc, vô sâu trong cái phần giáp biển gần gần Đá Bạc. Tôi có vô đó một lần. Tôi cũng từng đi vô vùng sâu của Bến Tre một lần, từng đi vô vùng sâu của Trà Ôn, huyện Phong Phú, xã Phong Phú, Trà Ôn một lần. Nó sâu thiệt — có nghĩa là chỉ có một phương tiện duy nhất để vô đó là ghe xuồng thôi, xe đạp vô không được, vì không có đường, không có bến, không có gì hết. Trong thời gian chúng tôi ở đó, chỉ có vài cái dấu hiệu văn minh. Thí dụ như trên trời có máy bay thỉnh thoảng bay ngang; còn ở dưới đất thì chỉ có ghe máy thôi. Mình mà thèm tiếng động cơ quá, là phải lại gần nhà máy tuốt lúa để nghe. Trên trời thì có máy bay, dưới đất thì ghe máy, ngoài ra không có cái gì gọi là văn minh hết. Sách báo, tất cả là zero hết. Ngay cả cái đồng hồ người ta cũng khó đeo luôn, bởi vì đeo rồi sao đi làm ruộng? Đồng hồ đeo rồi vướng víu khi làm đồng, cho nên nếu có ai cho thì cũng giấu biệt luôn. Cái đồng hồ đeo tay mà họ cũng không có cơ hội để đeo được, dễ sợ vậy đó. Thì đó, cho nên cái khi mà gặp Phật ra đời mà mình bị mắc vào trong mấy cái điều kiện đó đó — một là bị sa đọa, hai là làm người tàn khuyết, tàn khuyết về thể lý, về sinh học, hoặc là tàn khuyết về tinh thần, hoặc là bị trục trặc về môi trường sống. Và cuối cùng, cái cuối cùng — nó ứng vô bài kinh này — là khi mình gặp Phật ra đời mà chánh pháp không được giảng, vị A-la-hán ở đó mà ngài không chịu khai khẩu, là mình xong, ngài không nói gì hết. Chẳng hạn như ngài Xá-lợi-phất, ngài có một vị đệ tử bảy tuổi, đắc A-la-hán, lục thông, tam minh, và bốn trí vô ngại. Có nghĩa là vị này mà thuyết pháp, thì Đế Thích cũng phải cúi đầu mà nghe — Đế Thích, Phạm Thiên đó nha. Vậy mà ngài xét thấy cái dân làng đó không đủ duyên, thấy ngài còn nhỏ, nên coi thường, cho nên suốt ba tháng an cư ngài không nói một lời, không nói một lời nào hết. Rồi sau ba tháng an cư đó, Thế Tôn cùng với năm trăm tỳ-kheo đi vào khu rừng đó. Đức Phật ngài xét, ngài biết rằng với sự có mặt của ngài thì sẽ độ được rất nhiều người — đúng, cái chuyện đó đúng. Nhưng mà với sự có mặt của ngài, ngài muốn một cách kín đáo vinh danh vị sa-di bảy tuổi La Hán, để cho bà con đừng có coi thường nữa. Chuyện này dài lắm, tôi nói vắn tắt thôi. Tức là Đức Thế Tôn sau mùa an cư, ngài nói với ngài A-nan: “Như Lai sẽ đến thăm sa-di Tissa trong rừng.” Khi đó dân làng nghe tin Phật đến thì họ mừng lắm, kéo nhau đến cúng dường, gặp Phật, nghe Pháp. Sau buổi trai phạn, Phật mới dạy vị sa-di đó: “Con, thuyết pháp đi, con thuyết pháp cho dân làng nghe.” Vị này là lục thông, tam minh, bốn trí vô ngại, có nghĩa là khả năng diễn giải Phật pháp của vị này là gấp triệu lần vị tam tạng phàm phu — gấp triệu lần. Vì ngài là thánh Tăng, A-la-hán, bốn trí vô ngại. Ngài thuyết pháp trùng trùng như biển lớn, mênh mông như thái không, lưu loát như dòng chảy cuồng lưu, bạo liệt. Một thời pháp thao thao bất tuyệt, lưu loát không ngừng. Bà con Phật tử nghe xong mới trách: “Trời ơi! Tại sao? Tại sao ba tháng trời nuôi ngài ăn mà ngài không nói một lời, dù chỉ một lời chẳng đáng chi? Mãi cho tới hôm nay Phật tới rồi, ngài mới chịu nói?” Thì chúng ta thấy, duyên chưa có tới. Chưa tới duyên thì thua, đó — đó là vị đệ tử của Đức Phật đó. Còn bản thân Thế Tôn cũng vậy thôi. Đại bi và đại trí không có phân biệt chúng sinh. Nhưng bây giờ nó không có duyên, nó không có muốn nghe. Trong câu kệ chánh kinh đó, nó cũng không muốn nghe, mà nó cũng không có niềm tin. Nó không có lắng tai, nó không chịu nhớ, nó không chịu hiểu, và sau cùng nó không có cái dự trù, dự kiến là nó sẽ hành trì. Nó không có. Nó không có đủ cái tâm cơ, tâm huyết để mà nó ghi nhớ, để mà nó thấm thía, để mà nó tiêu hóa. Không có. Mà khi mà nó không có mấy cái này, thì Thế Tôn im lặng mà nghe, mình nghe mà tiếc. Chứ còn mình bây giờ đó, mà mình tưởng tượng, mình bây giờ mình gặp Phật một giờ đồng hồ rồi mình chết cũng mãn nguyện. Ấy vậy mà thời Phật ấy, có nhiều khi cả ba tháng, tám tháng, không có ai tìm đến ngài để nghe pháp. Trong một cái Phật-sát — Tam thiên đại thiên vũ trụ — không có ai. Không ai tìm đến ngài, mà cũng không ai đủ duyên để ngài tìm cách gặp họ. Khiếp như vậy đó. Các vị thấy khiếp không? Các vị tưởng tượng đó: 1.000 cái galaxy, 1.000 cái thái dương hệ là một cái tiểu thiên thế giới; mà 1.000 cái tiểu thiên là một cái trung thiên; 1.000 cái trung thiên là một cái đại thiên; mà 10.000 cái đại thiên thế giới như vậy là một khu vực hoằng pháp của một Đức Phật. Ấy vậy mà có khi cả năm tháng, tám tháng, không có một người đủ duyên để được gặp Phật, hay là Phật đến gặp họ. Khiếp như vậy đó! Cho nên hôm nay, làm gì thì làm, tôi vẫn tin cái pháp môn nguyện. Tôi biết thế nào cũng bị ném đá, thế nào cũng bị ném đá — như trong Thánh Kinh vậy đó, người đàn bà bị ném đá trong Thánh Kinh vậy đó. Bữa tôi đi Ấn Độ, tôi có nói bà con, tôi nói: “Bây giờ mình tu nó tệ quá, thôi giờ mình tu pháp môn tùy hỷ.” Tại Ấn Độ hoặc là về xứ rồi, đêm đêm vậy đó, đọc một bài thôi: “Cái hạnh lành nào, công đức nào mà Thế Tôn trở thành Chánh Đẳng Giác, chư Phật trở thành Chánh Đẳng Giác, trở thành Độc Giác, thì con xin hết lòng tùy hỷ.” Gõ cái beng. “Hạnh lành nào mà đưa ngài Xá-lợi-phất trở thành đệ nhất trí tuệ, ngài Mục-kiền-liên trở thành đệ nhất thần thông, con xin tùy hỷ hạnh lành đó.” Gõ cái beng. “Cái hạnh lành nào mà giúp cho ngài A-nan trở thành đệ nhất đa văn, ngài Sivali trở thành đệ nhất tài lộc, ngài Ca-diếp trở thành đệ nhất đầu-đà, hạnh lành nào, hạnh nguyện nào, con xin tùy hỷ.” Gõ cái beng. Trời ơi, chúng nó chửi biết bao nhiêu, chúng nó nói: “Pháp môn gì mà lạ quá! Tại sao nói? Vì chưa nghe sư phụ nói pháp môn tùy hỷ!” Việt Nam thì có một cái pháp môn nữa mà tôi vẫn bị chửi — pháp môn nguyện. Mình làm sao mà mình tu như là Bồ Tát Thích Ca Mâu Ni, Bồ Tát Di Lặc, Bồ Tát Ca-diếp, sao mà mình làm nổi. Thì thôi, bây giờ mình chỉ có nguyện thôi. Mà thật ra, các ngài cũng đã tu cái pháp môn đó rồi. Có nghĩa là làm một công đức, nguyện ngàn công đức. Làm một công đức, nguyện ngàn công đức là sao? Nghĩa là mình không cầu quả nhân thiên, làm Phạm Thiên, Đế Thích, Chuyển Luân Vương gì hết; mà mình nguyện tạo nhân lành, không cầu quả, mà cầu nhân. Tạo nhân, cầu nhân là sao? Là nguyện do công đức này, đời đời sanh ra là người có trí; đời đời sanh ra dễ dàng chứng thiền; đời đời sanh ra dễ dàng ly dục; đời đời sanh ra có cơ hội gặp minh sư, thiện hữu; đời đời sanh ra tránh được người xấu, người ác; đời đời sanh ra có điều kiện để làm công đức khi có dịp. Chứ còn nhiều khi mình sanh lên bằng trời, mà tới lúc ngặt nghèo cần làm phước thì không có chuyện đó. Có đó, chuyện đó có! Tôi gặp rồi. Tôi đi đổi có hai, ba trăm bạc gì đó — ha, ba trăm đô — tưởng là đủ để xài trong lúc ở Ấn, ở Miến Điện. Ai ngờ, trời đất ơi, vô mấy cái chùa tăng, chùa ni, mà gặp tăng ni người ta tu học thiết tha, miên mật, thèm quá. Mà bây giờ sao? Một ký tiền, mà tính một ký tiền đô mà giấy 100, bây giờ móc ra cúng thì đau bụng quá, mà không cúng thì tiếc. Đó, thấy chưa? Dù mình phải liệu trước, mình phải tính cái lộ trình của mình. Đi Miến Điện, mình đi những đâu, rồi có khả năng, có cơ hội nào nên làm phước hay không. Một là mình đổi cho khá khá; hai là mình dự trù chỗ nào để có thể xoay gấp nhất có thể. Thí dụ như mình đi trong đoàn, mình coi cái tay nào mà giữ nhiều tiền, mình nói trước: “Một lát nữa tôi mượn bà mộtngàn nghe — tiền Miến á, tiền Miến mà tương đương với ngàn đô á. Tôi mượn bà 500, 300 nghen.” Nói trước để lát xuống chùa, chỗ tăng ni, thiền viện, học viện là mình có hàng, mình xài liền. Cho nên trong khi nguyện, phải nguyện đời sau lúc nào cũng có điều kiện — dầu nghèo như ăn mày, nhưng mà khi gặp Độc Giác, Chánh Đẳng Giác, Thinh Văn, là tự nhiên có được cái tô cơm nguội, có được trái bắp, củ khoai liền. Phải nguyện vậy đó. Nghèo như là cái thằng hủi, nhưng mà hễ gặp thánh hiền là phải có trái bắp, củ khoai, có chén cơm nguội liền. Cái đó là phải nguyện nha. Trong chú giải nói rất rõ: cái bà Sujātā đó, bà cúng được bữa cơm cuối cùng cho Bồ Tát trước khi thành đạo. Rồi cái ông Cunda, ông cúng dường bữa cơm cuối cùng của Thế Tôn trước khi ngài viên tịch. Hai người này là phải nguyện 100.000 đại kiếp để “xí cái phần” đó —xí cái phần, nguyện 100.000 đại kiếp này kia, rồi họ chỉ ước ao: “Con xin có cơ hội được cúng dường bữa cơm cuối cùng cho vị Bồ Tát, ngài dùng xong xuôi là ngài đắc đạo, độ sinh.” Còn cái ông thí chủ kia thì nguyện: “Cho con có cơ hội được cúng bữa ăn cuối cùng cho một vị Phật.” Các vị hỏi: “Tại sao nguyện kỳ cục vậy?” — thì muôn vạn lối, mỗi người có sở thích riêng, ai mà biết, thì hỏi mấy vị đó, sao tôi trả lời được. Nhưng mà thích làm là phải có nguyện. Chuyện cúng một bữa cơm nghe vậy chứ ghê lắm, chứ đâu phải như mình, xìu xìu ngồi tưởng tượng, ngồi dệt mộng. Phải có pháp môn nguyện. Ngài Anuruddha, đệ nhất Thiên nhãn, sau khi ngài nhìn thấy một vị thánh đệ tử của Phật Padumuttara được tuyên dương vinh danh là “Đệ nhất Thiên nhãn”, thì ngài thích quá. Ngài bèn cúng dường Đức Phật và chư Tăng, rồi nguyện: “Con nguyện đời đời được trở thành người có Thiên nhãn như vậy.” Mà không phải nguyện không, đó mới là chánh nguyện, còn chánh tín là phải tin. Ngài phải tin rằng mình có thể đạt được, và phải biết rằng cái tâm nguyện đó là đẹp, xứng đáng, chánh đáng — đó là chánh tín, chánh hạnh, chánh nguyện. Rồi kể từ cái lúc ngài nguyện đó, cho đến cái cuối cùng ngài gặp Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cứ đời đời sanh ra, cái gì mà đụng tới ánh sáng, đụng tới con mắt là ngài làm hết. Thí dụ như nói thời mình bây giờ: hỗ trợ tài chánh cho bà con mổ mắt, ba cái chương trình tác động xã hội, tác động chính trị, tác động tài chánh để có người hiến giác mạc; rồi kêu gọi mổ mắt miễn phí, đó — tất cả những gì liên quan tới mắt, tới ánh sáng là ngài làm. Rồi tới chuyện đi chùa, đắp tháp, làng nghèo xóm đói, ở đâu mà thấy cần ánh sáng là ngài bán nhà, bán đất để bố thí, cúng dường ánh sáng. Cái gì thuộc về mắt, thuộc về ánh sáng, là ngài làm hết, trong suốt 100.000 đại kiếp như vậy. Cho nên kiếp chót, ngài nhìn 1.000 cái galaxy — trong kinh có nói đó — ngài nhìn thấy 1.000 cái galaxy, trong khi mình chỉ sống trong một cái thái dương hệ, mà ngài có thể thấy 1.000 cái galaxy như vậy, rõ như người ta nhìn trái táo, trái sung đặt trong lòng bàn tay, rõ như vậy đó. Ngài Xá-lợi-phất cũng vậy. Sau khi nguyện trở thành đệ nhất trí tuệ, thì đời đời kiếp kiếp, hễ ở đâu có minh sư, thiện hữu, người trí, người giỏi, là ngài tìm tới ngài học, ngài hỏi. Cái gì học được thì học, cái gì hỏi được thì hỏi, mà suốt một a-tăng-kỳ và 100.000 đại kiếp như vậy. Ngài Mục-kiền-liên cũng vậy. Từ lúc nguyện trở thành đệ nhất thần thông, là ngài phải trau dồi, đến mức gọi là “cạn tàu ráo máng” — thầy bà ở đâu mà đắc thông, đắc thiền, đắc định, là ngài tìm tới, ngài học cho bằng được. Học hết nghề luôn. Nhưng phải suốt một a-tăng-kỳ và 100.000 đại kiếp, ly dục, chứng thiền, chứng thiền rồi lại ly dục, mà cứ liên tục như vậy. Suốt một a-tăng-kỳ. Cho nên phải có những người đủ duyên, đủ phước như vậy đó, thì khi gặp Phật ra đời, dù có nghìn dặm sơn khê thì ngài cũng tìm tới với mình. Một là mình đủ phước, ở cái xứ trung tâm văn minh để dễ dàng gặp được Thế Tôn và Thánh chúng; còn nếu mà chẳng may mình ở cái vùng xa ngái, mù khơi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo thì các ngài — vị này cũng, vị kia cũng — tìm tới nơi để mà gõ đầu, khai thị cho mình. Còn cái thứ mà nó vô phước, vô phần rồi đó, thì nó giống như cái thằng đui mà đi giữa ánh nắng vậy đó — nó không thấy nắng vàng; nắng vàng không thấy, nắng vàng chỉ thấy nóng nóng cho vui vậy thôi. Rồi giống như người điếc mà đưa vô trong nhạc hội Opera — nghe không có hiểu. Giống như người nghẹt mũi mà đi thử mít; bị sốt mấy ngày, lưỡi nhạt, mà đi nếm thức ăn, thì nó “trớt quớt” vậy đó. Có nghĩa là khi năm giác quan sinh học của mình có vấn đề, thì cái khả năng cảm nhận, cảm thụ các trần vật chất đương nhiên có vấn đề. Và cái thứ sáu mới quan trọng: khi mà ý thức, não trạng của mình nó ốm đói, suy dinh dưỡng, nó thiếu máu, tinh thần mình suy dinh dưỡng, nó thiếu tín, tấn, niệm, định, tuệ, thiếu duyên lành, thiếu ba-la-mật — thì sao? Thì khả năng cảm thụ và đón nhận chánh pháp đương nhiên có vấn đề. Gặp Phật mà mình vẫn trớt quớt, nghe pháp Phật mà cũng trớt quớt, mà nếu các ngài biết mình trớt quớt, thì các ngài nói làm cái gì? Đờn khảy tai trâu à? Đờn gảy tai trâu à? Ngâm thơ cho cây cỏ nó nghe à. Cho nên không phải là các ngài không có đại bi, không phải là các ngài không có đại trí, mà vì các ngài không làm chuyện vô ích, bởi vì độ không nổi mà! Độ không nổi! Nước là để tưới cây, tưới hoa, chứ lấy nước mà đi xối lên đá là cái gì? Cái đầu mà như cái đầu gỗ, đầu đá, đầu xi măng, đầu inox, thì bây giờ mình tưới nước lên để được cái gì? Đó, cho nên không tưới. Mình phải dọn cái nền như thế nào đó để người ta mới cất nhà lên được. Cái nhà lá, nhà gỗ, nhà tôn thì cái nền dọn kiểu sao; còn muốn cất nhà tường, nhà ngói, nhà bê tông, thì cái móng phải làm sao; muốn cất lâu đài, cả ngàn mét vuông, xài toàn vật liệu nặng, đắt tiền thì cái móng phải làm sao. Cái nhà 100 mét vuông khác cái nhà 500 mét vuông, 1000 mét vuông. Mình phải làm móng, dọn đất để trồng hoa màu, rau cải; chứ đâu phải muốn trồng là cứ rải hạt lên đất là trồng — phải dọn đất chứ! Cất nhà phải dọn móng, dọn nền, trồng trọt phải dọn đất, dọn đai. Các vị về miền Tây mà coi, dân miền Tây bà con mình ở dưới đó, người ta chuẩn bị như thế nào để có được cái vườn cam, vườn nhãn, vườn chôm chôm — toàn là mồ hôi tính bằng lít, không tính bằng giọt! Mồ hôi tính bằng lít đấy, chứ đâu có phải. Trời đất ơi, mình dân Sài Gòn, mình đi ngang cái vườn trái cây, mình ham quá, mình về mua 50 mẫu, rồi mình mua cây con, mình ghim, rồi năm sau mình thu hoạch như người bản xứ — đâu có! Mình có tiền mua đất là một chuyện, nhưng phải đổ mồ hôi tính bằng lít thì mới ra được miếng đất cho phép thu hoạch như ý. Ở đời không có gì miễn phí hết, không có miễn phí hết. Thì cái đất tâm mà để cất cái nhà giác ngộ gọi là tâm cơ; cái đất tâm để trồng cây Bồ-đề gọi là tâm địa. Thì cái tâm cơ và tâm địa đó phải được chuẩn bị hợp lý, thì khi Phật ra đời, ngài mới cất được cái nhà trên đó cho mình, cái nhà Như Lai mới cất trên đó cho mình được. Cái cội Bồ-đề nó chỉ mọc được trên cái đất tâm mình. Đừng có nói Phật ra đời là giá nào mình cũng đắc ngộ. Phải coi lại — mình có đủ điều kiện để cho mưa Pháp rơi xuống mình chưa? Nắng rọi, gió thổi, mưa rơi — đâu có phân biệt ai đâu, đều chan hòa hết. Nhưng mà vấn đề là anh ở đâu? Anh ở dưới mái che thì mưa không vô được. Anh là nền xi măng thì mưa rơi xuống cũng không trồng trọt được. Nắng thì không phân biệt, nhưng anh chun dưới mái tôn thì nắng rọi không tới. Anh ở trong tường kính kín mít, thì gió không vô được, dưỡng khí không vô được, anh bị ngộp. Ở ngoài thì gió ào ào, gió cấp bão, cấp dông, mà anh cứ trùm mền kín mít, thì đừng hỏi tại sao anh ngộp. Ở ngoài kia bão tố cuồn cuộn, bão giông nổi dậy, nhưng anh chui hầm sâu trùm mền, thì anh làm sao thở được? Chư Phật ra đời, pháp vũ — cơn mưa Pháp — không có phân biệt, rơi xuống khắp nơi. Nhưng vấn đề là tâm cơ, tâm địa của mình có sẵn sàng hay chưa thôi. Nói bao nhiêu đây là đủ cho buổi kinh chiều nay. Mong bà con dọn đất, cất nhà; dọn đất, canh tác; tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững trên đạo lộ giác ngộ. Chúc các vị một ngày vui. [13/10/2025 - 10:04 - hongtran411] Bản tóm lược Kinh Puṇṇiya 1. Mở đầu – ví dụ về mưa và nắng Phật ra đời như ánh nắng và mưa pháp, chiếu khắp, rơi khắp, không phân biệt. Nhưng có nơi không tiếp nhận được vì bị che, bị kín, bị khô cằn. → Giống người có tâm cơ, tâm địa không sẵn sàng thì pháp không thấm. 2. Đại bi và đại trí của chư Phật Chư Phật không phân biệt chúng sinh, nhưng biết rõ ai có thể độ được. Giống như ánh nắng chiếu khắp, nhưng người trùm mền, đóng kín thì vẫn tối. 3. Không phải gặp Phật là được độ Phật đại bi, đại trí, nhưng không độ nổi người vô duyên. “Phật trí vô biên, Phật lực vô cùng, Phật tâm vô lượng – vẫn không độ được kẻ vô duyên.” Phải có túc duyên, khuynh hướng giải thoát, môi trường thuận lợi. 4. Nguyên nhân người đủ duyên vẫn không đắc Do nghiệp hoặc phiền não (kilesa, kamma): trọng nghiệp ngăn trở, như Đề-bà-đạt-đa, A-xà-thế. Do bị chặn ngang (tiracchāna): tâm bị ngăn, như loài đi ngang, không hướng thượng. Do bận rộn (kicchantara): đủ duyên nhưng bị cuốn vào đời sống, không có giờ tu, nên lỡ dịp. 5. Bốn trường hợp lỡ duyên gặp Phật (akkhaṇa) Sanh vào cảnh giới sa đọa: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Sanh làm người nhưng khuyết tật, thiểu năng, điếc, mù, câm. Đầy đủ thân căn nhưng có tà kiến sâu dày, bất trị. Sanh ở biên địa, nơi vô minh, không có ánh sáng văn minh. → Dẫn chứng: bộ tộc ăn thịt người, chặt ngón tay khi có tang, “huỷ nhan diệt dung”. 6. Thí dụ thực tế – vùng sâu, vùng xa Việt Nam xưa: vùng U Minh, Năm Căn, Bến Tre, Trà Ôn – không điện, không sách báo. → Biểu trưng cho cảnh giới không có điều kiện nghe pháp, tu học. 7. Ví dụ vị sa-di A-la-hán 7 tuổi Sa-di Tissa, 7 tuổi, đắc A-la-hán, có lục thông, bốn trí vô ngại. Dân làng không đủ duyên, ngài im lặng suốt 3 tháng. Đức Phật đến, khiến ngài thuyết pháp, độ được nhiều người. → Khi duyên chưa tới, Phật và Thánh cũng im lặng. 8. Vì sao Phật không nói Không phải Phật thiếu đại bi, mà vì độ không nổi. Giống như đờn khảy tai trâu, tưới nước lên đá. Muốn trồng cây Bồ-đề thì phải dọn đất, làm nền, đổ móng. 9. Tâm cơ – Tâm địa Tâm cơ: nền để cất nhà giác ngộ. Tâm địa: đất để trồng cây Bồ-đề. Phải dọn sạch, vun bồi, mới tiếp nhận được mưa pháp. 10. Pháp môn Tín – Hạnh – Nguyện Chánh tín: tin chắc vào Chánh pháp, vào giải thoát. Chánh hạnh: hành trì, tạo công đức, nuôi đạo tâm. Chánh nguyện: phát tâm đúng, hướng đến Niết-bàn. Đạo tâm là khả năng chịu đựng, buông bỏ; Đạo nghiệp là năng lực ba-la-mật trợ đạo. 11. Pháp môn Tùy hỷ và Nguyện Bà Sujātā cúng cơm thành đạo; Cunda cúng cơm Niết-bàn — đều do nguyện 100.000 kiếp để được “xí phần”. Anuruddha: nguyện làm đệ nhất Thiên nhãn → đời nào cũng làm việc về ánh sáng, mắt, mổ mắt, hiến giác mạc. Xá-lợi-phất: nguyện đệ nhất trí tuệ → đời đời học với minh sư, thiện hữu. Mục-kiền-liên: nguyện đệ nhất thần thông → tinh tấn thiền định vô lượng kiếp. 12. Bài học – Pháp vũ không phân biệt Mưa pháp rơi xuống không phân biệt, nhưng người ở dưới mái tôn, nền xi măng, hầm kín thì không thấm được. Muốn cây Bồ-đề mọc, phải mở mái che vô minh, làm đất tươi, đón ánh sáng pháp. 13. Kết “Mong bà con dọn đất, cất nhà, dọn đất canh tác, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững trên đạo lộ giác ngộ.”
Mật mã / Password: