<blockquote>Kalama tri ân bạn ghi chép.</blockquote>
toaikhanh.com
Sửa bài / Editing: Kinh Giáo Thọ Thi-Ca-La-Việt (Singalovada Sutta) 2
Kinh Giáo Thọ Thi-Ca-La-Việt (Singalovada Sutta) 2 [10/01/2023 - 02:57 - ngoc_ngopham] Hôm qua đang giảng đến chỗ chúng tôi cho là quan trọng, bị gián đoạn. Các vị Thánh Tu đà hườn không còn thân kiến, hoài nghi; không còn bỏn xẻn, ghen tỵ. Trong phần đó chúng tôi giảng thêm trong Chánh tạng, vị đó không còn cư xử theo bốn pháp thiên vị - tiếng Pali là agati. Thiên vị vì thương, trong đây nói là tham dục “ác nghiệp làm cho tham dục, làm cho sân hận, làm cho ngu si, làm cho sợ hãi”. Thánh đệ tử ở đây từ Tu đà hườn trở lên không còn mắc bốn pháp thiên vị. Thiên vị vì thương, vì thân- chandagati Thiên vị vì ghét, vì sân - dosagati Thiên vị vì sợ - bhayagati Thiên vị vì si - mohagati Trong đời sống của mình, mình là người phàm, từ bé đến lúc già chết đều hành xử theo bốn thứ cảm xúc này. Có những việc mình ghét, mình làm không được nhưng làm cho người mình thương, mình ok. Có những cái lẽ ra phải chia đều cho mọi người, mình lại chỉ cho người thân, người mình thương thôi; người mình ghét mình không cho. Hoặc hành động hoặc hành xử theo sự chi phối của tham, sân, si. Mình sợ người đó quá, mình chiều họ. Cái đó không được, mình phải hành xử theo Pháp. Hôm qua chúng tôi có nói đến ba hạng người trên đời. Hạng thứ nhất là … (tiếng Pali) - lấy mình làm trọng; lấy cảm xúc thích/ghét, vui/buồn của mình làm trọng, làm cái nền để mà hành động. Hạng thứ hai là …(tiếng Pali) - lấy tiếng đời, lấy dư luận làm trọng, tốt xấu chưa biết chỉ biết căn cứ vào tiếng đời. Hạng thứ ba là …(tiếng Pali) - không lấy cảm xúc bản thân làm trọng; không lấy tiếng đời, dư luận làm trọng; chỉ lấy tinh thần chánh Pháp làm trọng. Trong ba hạng người này, hạng thứ ba là người không mắc vào bốn pháp thiên vị. Còn hành xử theo bốn pháp thiên vị này là đang trên con đường đi xuống, sa đọa. Ở đây vì giảng cho một người cư sĩ nên chữ ác nghiệp ở đây chỉ cho những căn bản, thô thiển của người đời thôi. Đó là không sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối - chỉ lấy bốn cái căn bản của người cư sĩ thôi. Hôm qua tôi nhớ tôi đang giảng đến chỗ này. Không sát sinh ở đây nói riêng và giữ giới nói chung, không phải là mình không phạm là mình giữ giới. Giới là khả năng giữ mình trước những cám dỗ và thử thách mới gọi là giữ giới. Không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối cũng y như vậy. Một đứa bé còn nhỏ mới 2,3 tuổi làm sao phạm giới được. Điều đó có nghĩa là không làm bậy chưa chắc là giữ giới. Giữ giới ở đây là sự cố ý không làm bậy. Tôi không sát sanh vì tôi thương chúng sanh vì tôi biết ai cũng tham sống sợ chết. Nhưng khi tôi giết một con gì đó, tôi biết có thể tôi để lại nỗi đau mất mát tình thân cho ai đó, cho con nào đó. Ví dụ tôi giết con chim mẹ, đêm nay chim mẹ không về nữa, thì làm mấy con chim con làm sao nó sống đây (?) nếu tôi giết con chim mái, con chim trống còn lại sống làm sao (?) Thậm chí có những loài rất thủy chung như con thiên nga ở Châu Âu, nếu con chim trống chết, con chim mái suốt đời ở vậy đợi chờ, không tìm thêm con trống và ngược lại… Trong chú giải có nói, giới sát sanh để lại nhiều quả báo kinh hoàng lắm. Nặng thì đi địa ngục, sa đọa làm ngạ quỷ. Nhiều người Phật tử học kinh lơ mơ, tưởng làm ngạ quỷ là do nghiệp bỏn xẻn. Sai. Nghiệp bỏn xẻn là một trong một tỷ ác nghiệp dẫn sanh ngạ quỷ. Thậm chí trong chú giải có nói thêm tham quan, ô lại, gian thương, trọc phú, sống bằng xương máu người khác, cường hào ác bá cũng là con đường dẫn làm ngạ quỷ - nặng đi địa ngục, nhẹ làm ngạ quỷ. Nghiệp sanh ngạ quỷ nhiều vô số. Nên việc sát sanh cũng vậy, nặng đi địa ngục, nhẹ làm ngạ quỷ, bị các hình phạt tự có - nghĩa là không ai hành hạ mình hết, tự nhiên mình đi đâu cũng bị lửa cháy, đi đâu cũng có mấy cái búa gõ lên đầu mình, bị chim chóc rượt đuổi, thân thể tự mọc gai ra đau đớn… Khi mình sát sanh mình sanh ra gặp nhiều cảnh ngộ: bị tàn tật; bị bệnh hoạn triền miên; sanh ra được mấy ngày rồi chết; có người chết trong bụng mẹ; có người sống trong cảnh sanh ly tử biệt - nghiệp đẩy mình vô sống với người yểu thọ, mình cộng trú với họ để mới nhỏ xíu một hai tuổi là bị mồ côi mẹ, sáu tuổi mồ côi cha, thương ai là bị sống xa, xa người thân là do cái quả khi xưa mình sát sanh, ngoài chuyện gieo nghiệp yểu thọ, nghiệp bịnh hoạn còn gieo nghiệp sanh ly tử biệt giết ai đó và để lại nỗi khổ niềm đau cho những người ở lại. Trong chú giải có nói, khi sát sanh để lại nhiều quả xấu trong đó có một quả rất dễ sợ đó là sống trong cảnh sanh ly tử biệt, xa người mình thương. Có nhiều đứa bé rất tội nghiệp, do bố mẹ lục đục, trục trặc nên mới nhỏ xíu mà được mẹ, mất cha hay ngược lại. Hoặc nhiều khi phải sống với những người nó không thương, không thích. Không phải ngẫu nhiên mà như vậy đâu quí vị. Đó là một trong những lý do hồi xưa mình đẩy người ta vào chỗ ly tán, chia rẽ. Còn không là do nghiệp sát - mà nghiệp sát cũng là một nghiệp đẩy người ta vào chỗ chia ly, xa cách. Tội trộm cắp cũng để lại mấy chục cái quả xấu. Bây giờ tôi giảng mấy cái giới này đến rằm tháng tám cũng chưa hết, biết chừng nào mới hết Kinh. Cho nên tôi chỉ nói vắn tắt, mỗi cái ác nghiệp để lại không biết bao nhiêu quả xấu. Trong Kinh chỉ nói mấy cái tượng trưng thôi. Khi mình sát sanh, mình đã để lại bao nhiêu hệ lụy cho đời, sau này khi quả nó trổ mình cũng phải chịu bấy nhiêu cái quả khổ, bao nhiêu cái hình thức khổ. Trộm cắp cũng vậy, mình đừng tưởng trộm cắp của người khác rồi sau này mình bị trộm cướp lại. Hiểu như vậy nghèo quá. Mỗi ác nghiệp ta làm luôn để lại vô số hệ lụy cho người khác. Nên khi chịu quả xấu ta cũng chịu đựng chừng ấy những kiểu đau khổ. Quí vị biết có những trường hợp quí vị ăn cắp, quí vị để lại cái chết cho người khác, quí vị biết không? Ví dụ như má tôi ở trong bệnh viện bị bệnh nặng và cần một số tiền lớn. Tôi phải chạy chọt, cầm cố nhà cửa, cầm cố tài sản. Nếu là con gái, nhiều khi tôi phải bán thân để có một số tiền cho má tôi chữa bệnh. Rồi quí vị đi ngang móc hết số tiền của tôi, cái tội đó có phải là tội ăn cắp không? Lúc bấy giờ không phải quí vị ăn cắp số tiền của tôi mà quí vị đang lấy đi cái mạng của mẹ tôi, lấy đi cái mạng của tôi. Bởi vì nếu số tiền đó mất, tôi sống sao nổi đây? Chiều nay bốn giờ mẹ tôi phải mổ mà đành lòng quí vị lấy tiền của tôi. Ở Sài gòn có một kiểu giựt rất là tàn nhẫn, người ta đang chạy honda, nó đi ngang giựt cái giỏ làm cho người ta cắm cái đầu xuống đường bị chấn thương sọ não. Cướp kiểu này tòa án phải cộng thêm tội sát nhân chứ vì khi giựt cái giỏ không còn kể gì đến tánh mạng của người bị giựt hết. Mình bất kể những nỗi khổ niềm đau của người ta thì mai này khi quả trổ mình cũng chịu những hình thức không tài nào mình hình dung, tưởng tượng được. Nói dối cũng vậy. Trong Kinh có nói những người nói dối sau này sanh ra đời nói không ai nghe đã đành, có những tội nói dối dẫn đến đại họa cho thiên hạ, có tội nói dối dẫn đến địa ngục; làm người nhẹ thì bị miệng có mùi hôi, nói không ai tin, miệng có dị dạng kỳ hình. Có cái này nói không ai tin, trong Kinh nói mà tôi nghe hết hồn. Dị dạng kỳ hình là sao? Là do nói dối mình có thêm bớt, quí vị hiểu không? Nghĩa là chuyện không phải như vậy mà tôi thêm thắt, vẽ rắn thêm chân, tôi thêm cho nó không còn hình thức cũ nữa. Sau này tôi sanh ra cơ thể của tôi cũng bị thiếu cái này dư cái kia y như những cái mà tôi thêm bớt khi xưa. Quí vị muốn biết rõ mấy chuyện này, quí vị vô trong chú giải coi hay hỏi những vị lớn như Ngài Thanh, Ngài Tịnh Giác xem có đúng không? Có khi nói dối mình sanh ra quá ốm, quá mập (phát phì)… - những lý do, nghiệp xấu dẫn đến dị tướng thì nhiều lắm, nhưng trong chú giải nói thêm, trong cái nhiều ấy có cả nghiệp nói dối. Chứ tôi không nói phát phì, quá ốm, quá lùn, quá cao… chỉ do nói dối là không phải, nhưng nói dối có thể dẫn đến những cái đó. Giới tà dâm. Không ai tưởng tượng giới tà dâm cho mấy quả lạ lắm. Đời sau sanh ra nặng thì đi địa ngục, nhẹ làm ngạ quỷ. Quả dư sót của nó, sanh ra một là mang thân nữ. Trong room tôi biết có nhiều người, sanh ra nhà giàu, có nhan sắc, có ăn học, được chồng thương, con có hiếu…tưởng thân nữ sướng. Trong Kinh Đức Phật Ngài dạy, người nữ chuyện đầu tiên - trong số những người có phước, nữ được xem là vị trí thấp. Không biết nói trong room có nghe kịp không? Các vị đừng lấy vị trí của một tiểu thư nhà giàu đem so với một anh đạp xích lô - so như vậy là sai. Phải so trong số những người có phước giống nhau, thân nữ được xem là vị trí thấp. Trong số những người vô phước với nhau, thân nữ được xem là vị trí thấp. Đức Phật Ngài dạy, giàu nghèo sang hèn gì đi nữa, căn bản thân nữ bị những cái mà nam không bị. Ví dụ: thứ nhất nam dậy thì không có vấn đề; nữ dậy thì bắt đầu từ mười ba, mười lăm tuổi, cơ thể bị rắc rối mỗi tháng về sinh học. Thứ hai, người nữ hay gặp cảnh rời xa người thân, về sống với người dưng, làm dâu xứ lạ. Mang thân gái đi lấy chồng mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu. Thứ ba là vượt cạn, sinh con; lấy chồng nhưng khi sinh con chịu khổ một mình thôi, bụng mang dạ chửa, mang nặng đẻ đau. Bên Đài loan, ngày Vu lan được kêu là ngày Mẫu thân nạn là ngày bà mẹ bị đau đớn. Ngày sinh nhật của mình cũng là ngày Mẫu thân nạn. Quả dư sót nữa là bị rối loạn giới tính, không là nam không là nữ hoặc cùng một lúc có hai luôn. Trong room mình biết bốn hạng les, gay, bi, trans không? Bốn hạng này có hai trường hợp: les rắc rối giới tính của người nữ; gay là ở nam; bisex là cả hai; trans là chuyển từ nam qua nữ, nữ qua nam…đây là những rối loạn giới tính mà do hai cái nhân một là tiền nghiệp hoặc là môi trường sống hiện tại. Tôi vừa giải thích xong bốn nghiệp. Sau khi Ngài nói xong bốn ác nghiệp thô thiển thường bị ở người cư sĩ, Ngài nói luôn bốn lý do, bốn pháp thiên vị vì bốn cái này mà người ta có những hành xử sai lệch. Hành xử do thương, do thích, do ghét, do sợ …mà có những hành xử lệch lạc; do si mê là thay vì mình đi tìm hiểu phải làm sao, mình lại hành xử theo cái dốt của mình - tôi biết tới đâu, tôi làm tới đó, lẽ ra là người cẩn thận, tôi phải tìm hiểu để hành xử cho đúng, cho đẹp. Tiếp theo, Đức Phật Ngài giảng sáu nguyên nhân mà làm cho người cư sĩ bị mất mát tài sản. Ví dụ như thích rượu chè; đi sớm về khuya; đi ngang về tắt; la cà đình đám, hí viện, trà đình, tửu điếm; đam mê cờ bạc; chơi với bạn xấu; thói quen lười biếng. Ở đây Ngài giải thích rất rõ tại sao những lý do này đem lại nguy hiểm. Rượu chè đem lại bao nhiêu thứ nguy hiểm. Cờ bạc, đi đứng phi thời - phi thời ở đây là đi sớm về khuya, đi ngang về tắt… tôi nghĩ không cần giải thích vì bà con trong room còn rành cái này hơn chúng tôi; hơi với bạn xấu; thói quen lười biếng - không có gì cần giải thích. Không phải tôi lười nhưng giải thích uổng thời gian cái khác. Đoạn thứ 15, Ngài dạy có bốn hạng người không đáng để mình xem là bạn. Thứ nhất, là người vật gì cũng lấy; họ chơi với mình và tranh thủ, lấy được gì là lấy. Tôi là tu sĩ tôi nói ra cái này hơi kỳ, có nhiều người có thói quen thích xin. Thấy cái gì được là xin, lấy lén được là lấy còn xin thì cứ xin. Thứ hai, là khả năng nói nhiều hơn khả năng thực hiện - trong đây Ngài Minh Châu dịch là “nói giỏi”. Thứ ba, là người khéo nịnh hót, nói sao cho mình vui. Nếu đúng là bạn bè với nhau chúng ta không nhất thiết phải mua lòng nhau bởi vì chúng ta chỉ nói điều cần thiết thôi. Không biết trong room còn nhớ chuyện này không? Tôi nói không biết bao nhiêu lần. Tôi nói toàn bộ Phật Pháp chỉ nằm trong một nhận thức duy nhất là “Biết rõ cái gì cần và thích.” Toàn bộ đời sống của chúng ta, từ chuyện chúng ta sống một mình hay sống với vợ chồng, con cái, bạn bè, cha mẹ, trong chùa, trong Đạo hay trong đời sống nội tâm của mình. Toàn bộ Phật Pháp chỉ nằm trong một nhận thức duy nhất, biết rõ cái gì mình cần và cái gì mình thích. Bạn bè cũng vậy, không cần thiết phải mua lòng người ta, không cần thiết phải nói cho người ta vui. Cái quan trọng bản thân mình làm cái gì cần thiết,có lợi ích; nói cái gì cần thiết, có lợi ích; suy tư cái gì cần thiết, có lợi ích. Nói ra cũng vậy, dù đó là cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, bạn bè… mình chỉ thực hiện cái gì cần thiết mà thôi. Nên người nịnh hót cũng được xem là một kiểu bạn xấu, họ nói họ mua lòng mình. Tại sao họ mua lòng mình vì họ đang nhắm tới cái gì đó của mình, hoặc nhiều khi họ chỉ nói để đắc nhân tâm cũng không nên. Đối với một người trưởng thành, nịnh hót cũng như kẹo ngọt, nhẹ nhất là mình hư răng. Người nào khoái nghe nịnh, mai này người ta nói sốc, chịu không nổi. Khổ một chỗ, mấy bậc hiền trí, họ gặp mình họ nói thẳng không à, nên nếu mình khoái nịnh, gặp bậc hiền trí mình chịu không nổi. Trong room nhớ cái này quan trọng. Quí vị khoái nịnh, mai này quí vị gặp người tốt, quí vị chịu không nổi. Vì người tốt họ không nịnh, họ gặp mình họ phang thẳng. Quen kẹo ngọt rồi, gặp khổ qua, rau đắng… là chịu không nổi. Hạng tiếp theo là hạng người tiêu pha xa xỉ. Nó xài hết của nó rồi qua mượn của mình. Tiếp theo, Kinh này đặc biệt ở chỗ là đoạn đầu Ngài nói mấy hạng bạn thôi - Ngược lại, có những loại người đáng được xem là bạn. Thứ nhất, là người thật thà. Nghĩa là gom chung tất cả tánh tốt của người bạn lành, mình thấy có hai. Một là thiệt, hai là thương. Nhưng ở đây Ngài kể tới bốn hạng nhưng tôi đúc kết lại còn hai. Một là thiệt. Thiệt là gì? Thiệt là thành thật, là họ không dối. Hai là thương - làm gì thì làm họ cũng để lợi ích của mình lên trên. Hạng thứ nhất là che chở, không bỏ rơi khi mình thiếu cảnh giác; khi họ thấy mình sống thờ ơ, thiếu cảnh giác. Thứ hai khi khổ khi vui, họ luôn là người bạn bên cạnh mình; biết giữ kín điều bí mật cho mình; biết khuyên mình làm điều lành, lánh điều xấu. Họ vui khi mình được vui, họ không vui khi mình bị khổ. Đó là những dấu hiệu của một người bạn tốt. Quí vị đọc thêm chỗ này. Bây giờ, đến phần quan trọng. Nội dung Chánh Kinh. Tạng Kinh giảng sao, chúng tôi để vậy chứ chúng tôi không sắp xếp nội dung được. Tôi nhắc lại, Singàlaka là một công tử nhà giàu, có tài sản 400 triệu đồng vàng kahàpana thời đó - đổi theo tỉ giá hôm nay Singàlaka là tỉ phú đô la. Bố mẹ Singàlaka là hai vị Thánh cư sĩ đều đắc Tu đà hườn. Nhưng riêng Singàlaka là một cậu ấm ham chơi, nói thẳng luôn là thiếu hàm dưỡng. Cho nên coi chuyện phải cúi đầu trước bậc tu hành là chuyện khó chịu; coi chuyện phải ngồi trên đất là sợ dơ áo quần. Khi sắp mất bố mẹ của Singàlaka mới nghĩ đến một chuyện. Thôi thì bây giờ Đức Thế Tôn và các Phật Thánh còn sống, thế nào các Ngài cũng có cách để độ con mình. Thôi thì mình hãy dùng một cách, cái mẹo để đánh dấu cho các Ngài biết cái chỗ giúp con mình. Đánh dấu bằng cách, bố mẹ nghĩ ra cách dạy cho con làm một chuyện hơi lạ đời để gây chú ý cho người khác. Trong số những người chú ý đó, thế nào Đức Phật và các bậc Thánh Tăng cũng sẽ có mặt. Gây chú ý bằng cách bày cho con mỗi sáng đi ra ngoài trước nhà, để đầu tóc ướt nhẹp, xá lạy các phương hướng. Lâu ngày trở thành chuyện lạ, mới có người để ý. Đúng như vậy. Khi Đức Phật, Ngài nhìn thấy, Ngài biết hết. Ngài biết đây là con trai của một người cư sĩ, Thánh đệ tử. Ngài biết luôn chuyện, cậu này vái lạy các phương là do ông bố bày ra chứ cậu này không biết gì hết. Cho nên Ngài mới hỏi: “Tại sao ngươi làm như vậy?” Cậu thanh niên trả lời: “Con cũng không biết cái này cái gì, ông bố của con trước khi mất ông kêu con làm. Con nghe lời cha, cha con nói hay con làm vậy thôi.” Ngài nói: “Ngươi làm như vậy nhưng biết nội dung của nó là gì hay không? Ý nghĩa của các phương hướng là gì hay không? Hướng Đông tượng trưng cho Cha mẹ. Mình lạy hướng Đông không phải là chắp tay hướng về mặt trời mình lạy. Lễ bái hướng Đông là sống hiếu thảo với cha mẹ. Cha mẹ còn sống thì chăm sóc, phụng dưỡng về cả hai phương diện tinh thần, vật chất. Chứ còn chỉ lo cha mẹ ăn uống và không lo tinh thần cũng không xong. Ở đây các vị nhớ điều quan trọng. Sống hiếu thảo với cha mẹ là sao? Thứ nhất là nuôi dưỡng cha mẹ. Thứ hai là gìn giữ gia phong, truyền thống của cha mẹ. Thứ ba tài sản của cha mẹ để lại không làm thất thoát. Thứ tư …(tiếng Pali) lo lắng hậu sự nghĩa là hồi hướng công đức. Trong quyển … của Sư trưởng có một câu: Mẹ cha khuất bóng non đoài / Làm lành hồi hướng cho hai thân nhờ - là chỗ đó. Khi còn sống chăm sóc cha mẹ cả tinh thần lẫn vật chất; hướng dẫn cha mẹ sống vui vẻ, theo Thiện Pháp; thừa tự gia tài - không có phá của; gìn giữ gia phong - những gì hay đẹp của gia đình mình giữ lại - cha mẹ ngày xưa có thói quen Tết đi cúng thập tự, thỉnh thoảng đi giúp đỡ người nghèo, người bệnh, cơ nhỡ... những cái hay mình phải giữ lại. Khi cha mẹ mất, trong Pali để là…, mình phải biết hồi hướng cho cha mẹ, để cha mẹ có cái phước mà xài. Bởi vì, các vị nhớ cái này. Không có gì bậy bằng mình để cho người Trung quốc họ đè đầu đè cổ mình, họ dạy cho mình mấy cái tào lao. Tự nhiên mua giấy vàng bạc về đốt, lẽ ra quí vị chỉ bỏ cho tui - tính theo tiền Việt nam - bỏ ra mười ngàn đồng mua cái bánh tiêu, bánh bò cho một người ăn mày, hay tệ hơn cho một con chó đói bên đường rồi hồi hướng cho cha mẹ. Còn hơn là quí vị bỏ ra một tỉ đồng mua giấy vàng bạc về đốt. Vậy đó mà có kẻ nghĩ ra cái chuyện đốt giấy vàng bạc. Cái tào lao nữa là có chuyện mỗi năm làm gì có cái Vu lan để mà hồi hướng cha mẹ. Cha mẹ mình mất rồi, người thân mình nói chung khi họ mất rồi, mình phải coi họ đang ở bệnh viện, phải coi họ đang ở tù. Mà người tù hay người trong bệnh viện, mình thăm được lúc nào mình thăm. Tại sao mình qui định làm chi mỗi năm có cái ngày đặc biệt để thăm tù, thăm bịnh tôi thấy nó hơi lạ. Nhà tù, bệnh viện đã qui định giờ thăm rồi mà giờ mình lại qui định thêm một cái qui định nữa là sai cỡ nào. Ở đây cũng vậy, mình không biết thân nhân mình chết đi về đâu, chỉ căn bản nhất là họ mất rồi. Nếu họ đi về Trời, đang sanh làm Chư thiên, làm nhân loại, mình không nói làm chi. Giả định họ làm một loài phi nhơn nào đó, họ đang sống ở đâu đó. Thương nhất là, trong Kinh Tiểu bộ Đức Phật dạy, có nhiều trường hợp khi họ chết họ chỉ quẩn quanh nhà chờ người thân của mình có ngó ngàng gì tới hay không hồi hướng. Có những loài có khả năng báo mộng, có những loài không có khả năng. Có những loài không biết Phật Pháp nên nó chỉ biết nó đói, không biết làm sao cho hết đói. Nó chỉ đi quẩn quanh, hên gặp được con cháu biết hồi hướng thì đỡ quá. Xui gặp con cháu dốt nát, tà kiến thì chỉ có chết thôi. Nhìn thấy tụi nó ăn uống, quì lạy cúng bái, khóc than kêu réo. Mình biết nó thương mình nhưng mình không biết làm sao để báo cho nó biết mình đang đói dữ lắm. Trong Kinh kể có một ông Việt nam đang ngủ ngoài chòi ở ruộng, thấy một người lõa thể, ốm gầy đứng đầu giường. Lúc ban đêm ông thức, ông nói: “Tui nghèo lắm, tui chỉ còn có ít cơm nguội lấy cho ăn, có ít quần áo cũ chứ tiết lập đông mà không mặc gì cả; rồi người gầy gò nữa.” Ông không biết đó là ngạ quỷ, ông chỉ tưởng đó là tên ăn mày nào, bèo dạt thôi. Người đó nói: “Không có được. Tui không phải là nhân loại. Bây giờ ông có cho tui cái gì, tui cũng ăn không được. Ngày mai, ông ra ông để bát cho Chư Tăng rồi ông hồi hướng cho tui.” Ông này đang buồn ngủ nên nói đại “được rồi, được rồi”. Sáng ra ông nấu cơm sớm để chuẩn bị đi làm đồng và múc một tô ngồi chờ Chư Tăng , ông bỏ bát và ông hồi hướng cho người ốm nhách tối hôm trước. Xong rồi, tối lại ông thấy ông kia về mình mẩy sáng rực, lộng lẫy, bụng sáu múi, hôm qua V ngược, hôm nay V xuôi, tướng tá ngon lành nhưng lại không mặc gì hết. Ông mới hỏi: “Giờ phải làm sao?”. Ông kia nói “Do nghiệp ngày xưa tôi bủn xẻn tôi không có bố thí một đồng nào cả nên giờ ông cho cái gì tôi nhận cái đó thôi.” Ông này mới ráng đi mua một xấp vải, hôm sau ông lên chùa cúng cho Chư Tăng và ông hồi hướng. Đêm thứ hai, ngạ quỷ mới về, đứng ở đầu giường. Lần này ngon lành rồi, không còn thân ngạ quỷ nữa mà là một vị Trời, hào quang mà lại có thân tướng ngon lành, áo quần đầy đủ mặc toàn đồ lụa, đồ silk cashmir. Lúc đó mình mới biết, thì ra có vô số người thân của mình, họ chết rồi họ không được hưởng gì hết. Một phần mình không hồi hướng cho họ. Hai là do tà kiến hoặc tánh ghen tỵ nặng nề cũng khó nhận phước hồi hướng. 41:50 Vụ này mệt à nha. Tà kiến nghĩa là không có tin, không có tin kiếp trước, kiếp sau, luân hồi, quả báo. Thứ đó mà lọt xuống dưới đó rồi, hồi hướng không từ hỷ được. Hạng thứ hai khi mình còn sống, tánh mình ghen tỵ quá nặng nề. Tôi không nói rõ là ai, trong room này các vị biết, thường là người nữ tánh đó nặng lắm. Ghen tỵ có hai thứ… Mấy cái định nghĩa này quí vị phải nhớ. Bỏn xẻn là gì? Bỏn xẻn là không muốn mình mất cái gì. Ganh tỵ là không muốn người khác được cái gì. Ghen tỵ ở đây có hai: Ghen tỵ với nhân lành hoặc ghen tỵ với quả lành của người ta. Ghen tỵ với nhân lành là thấy người ta làm cái gì hay, cái gì tốt là mình bĩu môi, mình nguýt, mình lườm, mình liếc, mình dè bỉu, mình châm biếm, mình nói mạt hạng vậy đó. Thấy người ta làm phước mình ghét… Ghen tỵ với quả lành là thấy người ta đẹp, người ta giàu…mình ghét. Hối hận là gì? Trạo hối trong A-tỳ-đàm là mình hối hận với những việc done và undone. Hối là lòng áy náy, ray rứt không yên với những gì lẽ ra nên làm mà mình không làm hoặc lẽ ra không nên làm mà mình làm. Tiếng Pali là … Trở lại vấn đề ngạ quỷ. Trong tất cả các loại ngạ quỷ chỉ có một hạng duy nhất được nhận phước hưởng đó là Paradattūpajīvī có nghĩa là phước hồi hướng của người khác. Chỉ có hạng này mới nhận phước hưởng của người khác thôi. Tại sao? Bởi vì hạng này không mắc vào hai cái tôi mới vừa ghi. Một là không bị tà kiến nặng nề; hai là không bị tánh ghen tỵ nặng nề. Cho nên khi nó bị đọa làm ngạ quỷ nó mới có thể dễ dàng, nhanh chóng, mau lẹ nhận được phước hưởng của người khác. Đừng có tưởng hồi hướng là được nhưng ít ra người hồi hướng cũng nhận được công đức và biết đâu người thân mình nhận được - ở đây phải xài chữ “biết đâu”. Cho nên khi ba má còn sống mình phải phụng dưỡng về tinh thần và vật chất. Khi ba má mất rồi phải làm phước hồi hướng. Tiếp theo là phương Tây. Hướng Tây là tượng trưng cho đạo vợ chồng. Ở đây không cần giải thích nhiều, bà con tự biết rồi. Hướng ở đây tôi làm cho quí vị dễ nhớ - hướng trong Kinh khác, tôi làm theo hướng của mình là Đông Tây Nam Bắc cho dễ nhớ. Hướng Tây là đạo vợ chồng, tức là người chồng đối với vợ phải có sự tôn trọng. Trong bản dịch này thấy kỳ quá, tôi là nam tôi đọc tôi còn tự ái. “Này Gia chủ tử, có năm cách, người chồng phải đối xử với vợ. Một là kính trọng vợ, không bất kính với vợ, trung thành với vợ, giao quyền hành cho vợ…”. Tôi nghi bản tiếng Việt không phải của Ngài Minh Châu, mà của vị nào đó … - tôi thấy kỳ quá. Theo tôi không phải “kính trọng” mà là “tôn trọng”… Quí vị thấy không? Ngôn ngữ dịch Kinh quan trọng lắm. Ở đây nên là tôn trọng với nhau, là “Phu phụ tương đãi, tương kính như tân” - nghĩa là dầu lấy nhau tám chục năm cũng phải có một chút gì đó hơi khách sáo; giận lắm cũng nên nói năng trong lịch sự. Vui lắm hay giận lắm cũng có cái chừng mực - “tương đãi như tân” là vậy đó. Bên Tàu có một câu thành ngữ “Cử án tề mi” có nghĩa là khi lấy bao nhiêu ngày… Có một bà bên Tàu, nếu tôi nhớ không lầm là vợ chồng không thích nhau thì phải (?). Cứ mỗi lần ăn, bà nâng khay trà lên ngang chân mày mời chồng - “cử án tề mi” - “án” là cái bàn, “tề mi” là ngang chân mày. Đó thành câu thành ngữ là “phu phụ tương đãi như tân”, suốt đời đối đãi nhau như khách - “tân” là khách. “Nhắm mắt lễ bái Phương Tây” - Phương Tây ở đây phải hiểu là đạo vợ chồng. Quí vị đọc trong đây sẽ thấy. Vợ chồng nên tôn kính lẫn nhau. Người chồng nên tin tưởng và thủy chung (chứ không phải “trung thành”) với vợ; nên chăm sóc nhu cầu vật chất cho vợ. Và ngược lại người vợ cũng vậy, phải thủy chung, thủ tiết, biết quan tâm lo lắng cho nhau. Hướng Nam tượng trưng cho Thầy Tổ, Đạo Thầy trò. Chúng tôi nói không biết bao nhiêu lần, một cuộc sống hoàn hảo là cuộc sống mình phải có khả năng ở dưới nhìn lên, ở trên nhìn xuống, ở trong nhìn ra, và ở ngoài nhìn vào. Không ai trên đời này mà trên đầu không có Cha Mẹ, không có Thầy tổ, chung quanh không có bè bạn, ở dưới không có người nhỏ hơn để mình thương yêu chăm sóc. Không có. Một cuộc sống hoàn hảo là trên đầu phải có người, ở dưới phải có người, chung quanh phải có người. Bên người Tàu, họ nói Sư phụ cũng là một kiểu cha một nửa. Riêng Việt nam mình tinh thần này ngày xưa chứ bây giờ chắc hết rồi. Ở đây Đức Phật Ngài dạy chữ “Sư Trưởng” nghĩa là Thầy dạy chữ, dạy nghề cho mình. Mình là Thầy là mình phải có bao nhiêu bổn phận đối với đệ tử; đệ tử đối với Thầy cũng có bao nhiêu bổn phận. Quí vị tự đọc nha. Hướng Nam tượng trưng cho Đạo Thầy trò, hoặc là Đạo Sư đồ, tình Sư đồ… Hướng Bắc là Tình nghĩa bạn bè. Trong đây có nói rồi, một cuộc sống hoàn hảo là phải có trên, có dưới, có chung quanh. Mình có người để tôn trọng là Cha Mẹ, Thầy tổ; còn phải có bạn bè; ngoài đời còn phải có vợ chồng, con cái. Đối với mỗi đối tượng đó, mình đều làm trọn vẹn, giữ trọn vẹn Đạo nghĩa tương ứng. Trong chú giải gọi bài Kinh này là Gihivinayo - Vinayo ở đây có nghĩa là training cũng có nghĩa là khuôn phép sống đời của người cư sĩ. Bài Kinh này sướng lắm, bài Kinh tiếp theo Atanatiya Sutta cũng sướng lắm. Lỡ nói không lẽ im. Là nói về bài Hộ Kinh - nói về các vị tu hành ở chỗ quạnh hiu, lạnh lẽo, đáng sợ nên trì tụng bài Kinh đó để mà được sự Hộ trì của các hàng Chư Thiên. Trong bài Kinh có một vài chi tiết, tôi giảng nhanh lắm. Muốn giảng lâu cũng được, có thể giảng trong vòng một tuần. Bài Kinh đó giảng về bốn hành tinh có nhân loại cư trú. Không thì giảng trong vòng 15 phút là hết bài Kinh. Ví dụ trong bài Kinh có những vị Chư Thiên, vị Trời không phải Chư Thiên. Tôi tránh chữ Chư Thiên vì Chư có nghĩa là nhiều mà mình nói “có một vị Chư Thiên” thì nghe không hay. Người Việt nam mình cứ nói như vậy hoài riết quen miệng. Không biết trong room còn nhớ tôi nói cái này không (?) làm sao có chuyện “một vị Chư Thiên” được, “một vị Trời”, “một vị Thọ thần” chứ sao lại “một vị Chư Thiên”. Giống như là “Chư Phật” là nhiều Phật mới gọi là “Chư Phật”. Còn “Chư Thiên” là nhiều vị Trời, bây giờ gọi là “một vị Chư Phật” nghe kỳ không? Vậy mà kêu “một vị Chư Thiên” lại nghe không kỳ. Lạ chỗ đó… Trong Kinh đó có đề nghị chuyện lạ lắm. Khi mình có lòng sợ hãi Phi nhơn, mình có thể trì tụng bài Kinh đó để được sự gia trì của các vị Trời đặc biệt - trong đó có các vị mà mình biết như Dạ Xoa Alavaka, như vua Bình Sa Vương - bây giờ tên là …(tiếng Pali), trong đó có kể tên của hai vị Đại lực Kim cang Dạ xoa đó là Hemavata và Sàtàgira - hai vị này vốn là hai vị trưởng lão trong thời Phật Ca Diếp, do dễ duôi có chút xíu thôi mà chết sanh vào làm Dạ xoa. Đại khái bài Kinh đó có đề nghị hơi lạ là muốn trì tụng bài Kinh đó cho mình, hoặc muốn tụng giúp cho người khác, đương sự phải ăn chay trong suốt một tuần. Cái này đặc biệt, nghĩa là tránh thịt cá, tránh đồ mặn trong suốt một tuần lễ trước khi trì tụng bài Kinh đó. Bài Kinh đó là bài Kinh chúng tôi sẽ giảng sau. Tôi đang giảng bài Kinh này. Toàn bộ bài Kinh là sáu hướng tượng trưng cho: 1.Đạo hiếu; 2. Đạo sư đồ; 3. Đạo vợ chồng; 4. Đạo bằng hữu; 5. Đạo chủ tớ; 6. Đạo tăng tùng. Trong Kinh nói đến sáu Đạo - Lục Đạo Đạo hiếu: cha mẹ đối với con cái ra sao và con cái đối với cha mẹ ra sao. Mình đối xử với cha mẹ thế nào, mai này - nếu không phải kiếp này thì là kiếp khác - mình sẽ được con cái đối xử như vậy. Bà con có lẽ phải ghi cái note này, nếu không bà con sẽ trách, một là trách kinh điển, hai là trách chúng tôi không nói. Bà con nói “Ủa, sao tôi có hiếu với ba má tôi mà con tôi lại trời ơi???” Tôi xin nói rõ, hôm nay mình có hiếu với ba má nhưng con mình lại bất hiếu, đó là cái quả xấu của kiếp trước nào đó. Chứ không phải mình có hiếu với cha mẹ mới bị con bất hiếu, không phải. Chuyện mình có hiếu với cha mẹ là một việc lành. Chuyện con mình bất hiếu với mình là một quả xấu của mình, cũng là cái nhân xấu của nó. Nó khác nhau. Đó là cái Đạo hiếu. Đạo Sư đồ là mình làm thầy hay làm trò cũng phải giữ tròn Đạo thầy, Đạo trò. Đạo Vợ chồng. Nếu là chồng phải giữ trách nhiệm của chồng, nếu là vợ phải làm tròn trách nhiệm của vợ. Đạo Bằng hữu: Nếu là bạn bè mình nên làm gì mà nên tránh làm gì cho nhau. Đạo Chủ tớ: đối với kẻ ăn người ở, những người dưới tay dưới quyền mình, ta phải làm sao cho phải phép. Đạo Tăng tùng: Nếu mình là người cư sĩ phải đối với hàng xuất gia làm sao. Mình là người xuất gia phải đối với người cư sĩ ra làm sao. Tự bà con xem để nhớ cho lâu. Trong Kinh này nói về sáu Đạo như vậy: 1.Đạo hiếu; 2. Đạo sư đồ; 3. Đạo vợ chồng; 4. Đạo bằng hữu; 5. Đạo chủ tớ; 6. Đạo tăng tùng. Kết thúc bài giảng, thanh niên Singàlaka phát tính tâm, quy y Tam bảo, cúng sạch tài sản, chết rồi sinh Thiên. Cái này dịch sát Chú giải và tôi không ngờ tôi dịch một cách hoàn hảo như vậy. Cúng sạch tài sản ở đây, trong Kinh nói là - bốn trăm triệu đồng vàng. Quí vị cũng sẽ hỏi tôi “sinh Thiên” trong Kinh có tiếng Pali là gì? Saggaparāyaṇa (??) có nghĩa là sinh thiên. Quy y Tam Bảo tiếng Pali là sarana…(tiếng Pali ) và sarana gamana. Nhớ hai chữ này nha. Nếu mình là cư sĩ, mình nhớ hai chữ này hay biết bao nhiêu vì đây là những chữ rất phổ biến trong Kinh. Sẵn đây tặng bà con câu này. Trong Trung bộ Kinh có câu thế này…(tiếng Pali). Câu này đáng để quí vị học thuộc lòng “Dầu chỉ có lòng thương mến Như Lai cũng đủ để sinh Thiên.” Câu này tôi coi là Thần chú trong suốt mấy chục năm qua. Trong Trung bộ Kinh mà tôi quên trong Kinh nào rồi. Bà con làm ơn kiếm trong Google. Đừng có nghe như vậy mà ham, “Thương mến” là sao? Là “you” phải có học giáo lý, phải hiểu. Trong Kinh nói, Đức Phật Ngài đưa cho Ngài Ananda cái bình bát, Ngài kêu Ngài Ananda lấy bình bát (của Đức Phật) đựng nước đem rải chung quanh thành Vesali. Lúc đó thành Vesali bị bệnh dịch, Phi nhơn thì quấy rối lộng hành, nhân loại trong thành bị bệnh nhiều lắm. Đó là lần đầu tiên mà cũng lần duy nhất tôi thấy trong Kinh nói Đức Phật… Ngài kêu Ngài Ananda lấy nước trong bình bát của Đức Phật rải. Khi Ngài Ananda cầm bình bát của Đức Phật, Ngài lấy một nhánh lá nhúng trong đó rải chung quanh thành. Ngài Ananda là một vị Thánh, tuy là Sơ quả nhưng Ngài có nội lực thâm hậu của một người trăm ngàn đại kiếp. Cái bình bát là của Đức Phật nữa chứ. Khi mà Ngài đi rải nước, trong Kinh nói, Ngài suy nghĩ “hai mươi A-tăng-kỳ vừa qua, kể từ lúc Sơ phát Bồ đề tâm, Thế Tôn đã tu hành Ba la mật như thế nào.” Lễ Phật là phải lễ như vậy chứ không phải như chúng ta lễ Phật “ê, a” như con nít trả bài. Muốn biết được cái này, mình phải có giáo lý. Ngài quán tưởng Thế Tôn từ lúc Sơ phát Tâm là sao? Lần đầu tiên Ngài là một thuyền trưởng đi tàu trên biển. Tàu bị chìm, Ngài mới cõng mẹ lội suốt bảy ngày đêm trên biển. Vào tới bờ Ngài mệt lắm. Lúc đó có một vị Trời, Đại Phạm Thiên nhìn Ngài, thấy con Người này quá dễ sợ, đáng kính, nghị lực phi thường. Con Người này có lẽ đủ năng lực để thành Bồ tát đây. Vị Phạm Thiên đó cũng là một Phật tử nên vị Phạm Thiên đó mới xuống nói với Ngài rằng Con Người như Ngài nếu thành Phật, Ngài độ chúng sanh là số một. Ngài nghe như vậy Ngài mới Sơ phát Tâm, cách đây hai chục A-tăng-kỳ. Ngài nguyện “Hôm nay Ta cõng mẹ vượt biển, mai này Ta sẽ cõng chúng sanh vượt biển” rồi Sơ phát Tâm từ lúc đó. Kể từ đó, trong Kinh nói, cách đây trước kiếp là thuyền trưởng, Ngài là công chúa, em họ của Đức Phật …(Tiếng Pali)
Mật mã / Password: